Lễ Kathina hay còn gọi là Lễ dâng bông, dâng y cà sa của đồng bào Khmer Nam bộ được tổ chức hằng năm trong vòng 1 tháng sau ngày mãn hạ (bắt đầu từ ngày 15-9 đến ngày 15-10 Âm lịch, trước lễ hội Ok-om-bok). Đồng bào Khmer tổ chức lễ Kathina nhằm cầu cho mưa thuận gió hòa, cầu cho phum sóc yên vui hạnh phúc.
Lễ này thường diễn ra trong hai ngày. Ngày đầu tiên diễn ra tại chùa, các sư sãi đọc kinh cầu nguyện để phum sóc an lành, cầu phúc cho mọi người gặp nhiều may mắn. Ngày thứ 2, đồng bào Phật tử trong phum sóc sẽ tổ chức một đám rước quanh phum sóc và xung quanh chánh điện như minh chứng cho lòng thành thành của họ trước khi làm lễ dâng bông và dâng áo cà sa lên sư sãi.
Vào ban đêm, tại các chùa làm lễ luôn có các hoạt động văn nghệ để phục vụ phật tử trong phum sóc đến vui chơi giải trí.
Đồng bào Khmer Sóc Trăng chiếm gần 30% dân số toàn tỉnh, đây cũng là tỉnh có đồng bào dân tộc Khmer đông nhất khu vực Nam Bộ với trên 90 ngôi chùa.
Trong vài năm trở lại đây, lễ dâng bông và dâng y cà sa của đồng bào Khmer Sóc Trăng càng được tổ chức chỉn chu và càng lớn hơn do đời sống kinh tế của bà con ngày càng khá. Đám rước dâng bông trước đây đã lớn này lại thêm phần long trọng do kết hợp thêm các loại hình nghệ thuật truyền thống vào lễ rước như Rô băm, dù kê.
Lễ Ooc-Om-Bok và hội đua ghe ngo diễn ra hàng năm từ ngày 14 đến 15/10 âm lịch, tại sân nhà, sân chùa và sông Maspéro thị xã Sóc Trăng.
Lễ Ooc-Om-Bok
Thời điểm tổ chức lễ hội Ooc-Om-Bok là lúc thời tiết bắt đầu sang mùa khô, lúa ngoài đồng chớm chín. Lễ hội có ý nghĩa tạ ơn Thần Mặt Trăng và cầu mong điều lành, may mắn; cầu mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, nhà nhà ấm no hạnh phúc.
Lễ cúng trăng: lễ cúng trăng vào tối ngày 14 tháng 10 (âm lịch), thời gian hành lễ trước khi mặt trăng lên đến đỉnh đầu. Vị trí hành lễ đặt tại sân của từng nhà, sân chùa hay nơi rộng rãi không bị che khuất ánh trăng. Tại đây người ta chôn hai cây tre (hoặc tầm vông) làm trụ. Phía trên buộc một cây xà ngang dài chừng 3m, trang trí hoa lá (giống như một cổng chào). Phía dưới kê bàn đặt lễ vật. Lễ vật gồm có cốm nếp; các loại sản vật nông nghiệp có tinh bột (khoai lang, khoai môn, sắn); hoa trái (dừa, chuối, bưởi, cam...), bánh kẹo. Với lòng thành kính, mọi người ngồi chắp tay trước ban thờ, mặt hướng lên mặt trăng, một cụ già làm chủ lễ đọc lời khấn Thần Mặt Trăng, sự biết ơn của con người đối với thần, xin thần tiếp nhận lễ vật và ban phước lành cho họ.
Sau khi cháy hết tuần hương, người già gọi trẻ con đến ngồi xếp bằng trước ban thờ. Cũng động tác chắp tay thành kính trước ban thờ Mặt Trăng, sau đó một cụ già dùng tay nhúm một ít cốm và lễ vật khác, đút vào mồm từng đứa trẻ, tay kia vỗ lưng và hỏi ước muốn của chúng năm nay là gì? Năm nào câu trả lời của các em suôn sẻ, lễ độ, rành rọt thì người lớn tin rằng năm đó mọi điều tốt lành sẽ đến với họ. Cuối cùng mọi người hạ cỗ cùng nhau hưởng lễ vật; trẻ nhỏ nô đùa, múa hát dưới trăng. Nếu có khách đến vào ngày này thì họ sẽ có quà bằng cốm dẹp.
Tại các ngôi chùa Khmer đêm 14 tháng 10 còn có tục thả đèn nước trên sông và thả đèn gió bay lên trời. Theo quan niệm của người Khmer, tục thả đèn nước sẽ xua tan bóng tối, sự ô uế và buồn bã, giữ lại sự bình yên trong phum, sóc. Nhiều hoạt động sân khấu truyền thống Khmer như đoàn Dù kê, Rô băm biểu diễn phục vụ khách hành hương chảy hội vào tối 14 này.
Hội Đua ghe ngo
Theo phong tục cổ truyền của người Khmer, ngày hôm sau lễ cúng trăng (15/10) là tục đua ghe ngo. Trước khi đi dự thi, cộng đồng thường làm lễ tạ thần và tổ chức chiêu đãi những người tham gia cuộc thi. Đội đua gồm những trai tráng khoẻ mạnh, có kinh nghiệm, được lựa chọn rất kỹ từ trước. Mỗi đội có trang phục đẹp, mũ cùng màu.
Tham gia cuộc đua có hàng chục chiếc ghe đại diện cho các chùa hay cộng đồng ở nhiều địa phương. Ban tổ chức chia các đội ghe tham dự thành hai nhóm A và B. Thông thường nhóm A là các ghe đã được xếp hạng trong mùa giải trước. Nhóm B là tất cả các ghe ngo còn lại.
Nhạc ngũ âm, tiếng trống, tiếng cồng và tiếng hò - hụi của các đội đua đang khởi động làm sôi động cả khúc sông. Trong đua ghe ngo, việc cầm lái, giữ lái để chiếc ghe đi đúng hướng, nhịp bơi của những mái dầm phải thật nhịp nhàng là những yếu tố quyết định đến tốc độ của chiếc ghe.
Hội đua ghe ngo được tổ chức hàng năm ở thị xã Sóc Trăng, những năm gần đây có nhiều địa phương đến tham gia như Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, thậm trí còn có đội ghe ngo đến từ nước bạn Căm Pu Chia. Điều này chứng tỏ lễ hội gắn liền với môn thể thao truyền thống này đang phát triển mạnh mẽ, trở thành sự kiện văn hoá truyền thống lớn ở Việt Nam.
Lễ hội cúng phước biển hay còn gọi là lễ hội Chrorumchec, diễn ra trong hai ngày 14 và 15 tháng 2 âm lịch hàng năm, tại ấp Đôn Chếch, xã Vĩnh Châu, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
Ban đầu lễ này chỉ diễn ra tự phát với quy mô nhỏ, hình thành từ ý tưởng của một nhà sư Khmer tên là Tà Hu. Lúc đầu, ông dựng một ngôi tháp trên giồng cát, gần chùa Cà Săng, thuộc địa điểm tổ chức lễ hội ngày nay để đồng bào phật tử đến thắp hương, thành tâm chiêm bái. Ông chọn ngày rằm tháng 2 âm lịch (tức rằm tháng 11 của người Khmer) để lập đàn làm phước, vì đây là thời điểm trời yên, biển lặng, ngư dân nào đi biển về thuyền cũng đầy ắp cá tôm. Dần dần buổi làm phước này được nhiều người quan tâm, nhiệt tình hưởng hứng vì nó đáp ứng được tâm nguyện của họ. Từ đó lễ cúng phước biển hình thành và trở thành một lễ hội truyền thống không chỉ của người Khmer mà còn của cả người Việt và người Hoa sống quanh vùng này.
Lễ cúng phước biển bắt đầu bằng lễ cầu siêu, tưởng nhớ công ơn tổ tiên, tạ ơn biển cả và cầu mong những điều tốt lành nhất sẽ đến với dân làng. Sau đó, người ta rước tượng phật từ chùa Cà Săng đến khu vực hành lễ, nơi dựng sẵn một cái rạp với chiều dài 8m, ngang 18m. Đây là nơi diễn ra các nghi lễ cầu nguyện tam bảo, cầu quốc thái dân an và chư tăng thuyết pháp.
Sau các nghi lễ mang đậm màu sắc tôn giáo là những hoạt động hội hè, giải trí. Nhiều trò chơi thể thao, văn hóa văn nghệ giàu tính truyền thống của dân tộc được tổ chức. Đặc biệt, các trò chơi này phần lớn là tái hiện lại các nghề chủ yếu mà cư dân ở đây dùng để mưu sinh trong cuộc sống hàng ngày của mình.
Trên khu đất trống tổ chức lễ hội, người ta đắp lên những đống cát và cắm nhang lên đó để cầu nguyện.
Trước đây, phần mở màn cho buổi lễ hội là hoạt cảnh tái hiện lại cuộc sống vất vả, cực nhọc của những người nông dân trong những buổi đầu khai hoang lập nghiệp. Đó là hình ảnh hàng trăm cô thôn nữ đeo những thùng tưới trên vai mình. Mặc dù thùng nước nè nặng đôi vai nhưng họ vẫn luôn tươi cười, trò chuyện cùng nhau như cố xua đi bao nỗi mệt nhọc của mình cùng với hàng trăm chàng trai lực lưỡng, ai nấy cũng gồng vác trên vai bộ đồ nghề đẩy xiệp, chuẩn bị bì bõm lặn lội kiếm sống qua ngày.
Trong phần hội, sôi nổi và cuồng nhiệt nhất có lẽ là cuộc đua bò kéo xe. Những chiếc xe bò chở đầy người, người điều khiển tay vừa vút roi miệng vừa la hét cố hết sức mình để cho xe của mình thắng cuộc. Trong cuộc đua này, thắng thua không phải là chuyện quan trọng, ý nghĩa chính của công việc đua xe bò này là nhằm nhắc nhở mọi người nhớ về buổi đầu của cuộc sống nông nghiệp, khi chưa có máy móc hiện đại, con bò trên vùng đất Vĩnh Châu này đã đóng góp một phần không nhỏ công sức mình cho công cuộc khai hoang mở đất, cho con người có được những hạt gạo, hạt nếp dẻo thơm.
Nhưng có lẽ độc đáo nhất là cuộc đua ghe ngo... trên cạn! Cuộc đua này chỉ diễn ra trong những năm liên tiếp bị hạn hán, mất mùa, tất cả kênh rạch đều khô hạn, nên phải đua ghe trên đất cho "động trời" để trời làm mưa cho mùa màng tươi tốt, con người vừa có nước xài vừa có nước tưới tiêu.
Chiếc ghe trong cuộc đua này được tượng trưng bằng một cái vòng bẹ chuối dài khoảng 2 mét. Cứ hai người một ghe. Họ dùng dây gióng ghe lên cổ, một người khác cầm một cây dầm bằng cọng tàu lá chuối, vừa chạy khắp các thửa ruộng theo một lộ trình tùy hứng, vừa múa vừa hát nói những lời cầu khẩn theo kiểu bắt vần hết câu nọ đến câu kia. Nội dung của các câu đó là cầu mong ông trời ban cho mưa xuống để có nước gieo sạ, ruộng đồng được xanh tốt.
Ngày hội cũng có những chương trình biểu diễn văn nghệ với những điệu múa uyển chuyển, điêu luyện của các cô gái Khmer. Có cả những vũ điệu cổ truyền như múa gà, múa khỉ của các nghệ nhân Khmer. Không khí hội hè hết sức tưng bừng, náo nhiệt, rộn ràng với lời ca, tiếng hát, tiếng nhạc, tiếng trống của nền nghệ thuật truyền thống đặc sắc của đồng bào Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long.
Các nghệ nhân múa trống Khmer đem đến sự hưng phấn, hào hứng cho khán giả với nhịp trống của điệu múa Chhayam. Chiếc trống đeo trước ngực của họ vừa là nhạc cụ đệm, vừa là đạo cụ múa được họ sử dụng rất nhuần nhuyễn và điêu luyện. Họ vừa vỗ trống vừa múa. Khi nhún nhảy toàn thân, lúc nâng cao, xoay chuyển nhanh nhẹn, trông thật hấp dẫn và rất ngoạn mục.
Chỉ diễn ra trong hai ngày, nhưng hội cúng phước biển Vĩnh Châu còn có nhiều hoạt động rất sinh động khác như thi đua tưới rẫy, đẩy xiệp, thi lượm củ hành, tranh tài thể dục thể thao, chiếu phim truyện Khmer... Vài năm gần đây, một số trò chơi đã thay đổi, không có thi lượm củ hành, thi đẩy xiệp... mà chỉ có bóng chuyền, kéo co, bi sắt, thả diều... Còn phần văn nghệ thì lúc nào cũng có.
Lễ cúng phước biển Vĩnh Châu đã tồn tại từ hàng trăm năm trước đến nay. Ý nghĩa của lễ này là cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Và cũng là để tưởng nhớ đến các bậc tiền nhân đã có công khai hoang mở cõi, tạo lập vùng đất, tạ ơn trời đất thánh thần đã cho họ có được cuộc sống ấm no, tạ ơn biển cả đã cho họ nhiều tôm cá, tạ ơn bãi bồi đã cho họ những cánh đồng xanh, hạt vàng nặng trĩu.
Lễ hội Thác Côn còn được dân gian gọi là lễ hội Cúng Dừa, vì thức cúng chủ yếu trong lễ hội này là hàng ngàn trái dừa tươi. Lễ hội diễn ra được tính theo Phật lịch của người Khmer, nhưng thường tương ứng với rằm tháng Ba âm lịch. Lễ hội được tổ chức tại An Trạch, thị trấn Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng.
Lễ hội Thác Côn đã tồn tại gần trăm năm, gắn với truyền thuyết về chiếc Cồng Vàng của vùng An Trạch xưa. Truyền thuyết ấy kể rằng: ngày xưa ở An Trạch tự nhiên nổi lên một cái gò hình dạng như chiếc cồng. Chân người dẫm lên phát ra âm vang như tiếng cồng. Được ít lâu, tiếng cồng trong gò đất nhỏ dần rồi mất hẳn.
Nhân gian bèn lập một ngôi miếu thờ. Hàng năm, dân làng An Trạch cùng nhau tổ chức lễ hội cầu an ở miếu này và gọi đó là lễ hội Thác Côn. Trong tiếng Khmer, Thác Côn có nghĩa đạp cồng, gợi lại sự tích về tiếng cồng chiêng vang lên từ đất. Lễ hội Thác Côn có lệ cúng những chiếc bình bông làm bằng trái dừa. Nét độc đáo của vật cúng khiến người ta còn gọi lễ này bằng cái tên lễ Cúng Dừa.
Lễ hội Thác Côn cũng như lễ Cầu an, Cầu phước của đồng bào Khmer nên tính chất nông nghiệp của nó thể hiện ngay trong các lễ vật dâng cúng là những thứ hoa trái giàu sắc thái bản địa của cộng đồng các dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long như trầu cau, hoa sen và trái dừa. Các thứ hoa trái tượng trưng cho sự thanh khiết và thiêng liêng ấy tập trung trên một vật cúng hết sức đặc biệt mà đồng bào Khmer gọi là Slathođôn - bình bông làm bằng trái dừa. Phần cây bông được tạo thành bởi những lá trầu xanh và những bông hoa. Miếng trầu, lễ vật không thể thiếu trong các nghi thức đám cưới, giỗ cúng tổ tiên của các dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long được cụm thành chiếc lá để trang trí cho Slathođôn.
Hoa sen với ý nghĩa cao khiết, thánh thiện đã trở thành phổ biến trong văn hóa dân gian, chiếm vị trí chủ đạo để làm nên hình tượng cây bông. Ngoài ra, người ta đôi khi cũng trang hoàng thêm bông huệ, bông cúc vạn thọ nhằm mục đích phối hợp màu sắc nhưng vẫn thống nhất về ý nghĩa Cúng Dừa. Phần đế cắm hoa được làm bằng trái dừa, loại quả có nước tinh khiết, ngọt lành chẳng những chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa ẩm thực của người Nam bộ, mà còn hiện diện trong hầu hết các lễ lộc, mang ý nghĩa cầu phước, cầu an. Trên cái đế cắm độc đáo bày hoa lá, nhang đèn, sắp xếp gọn ghẽ. Bình hoa Slathođôn giản dị, tiết kiệm và khá đẹp mang tính tượng trưng rất cao là lễ vật chủ yếu trong lễ cúng.
Có đến hàng chục giống dừa to nhỏ, màu sắc khác nhau thì cũng có đến hàng trăm kiểu phối hợp để tạo nên vô số Slathođôn đủ cỡ, đủ màu. Vào dịp lễ hội này, dân làng An Trạch, nhất là thanh niên nam nữ thu xếp việc nhà, sắm sửa trang phục để trẩy hội cầu phước và đây cũng là dịp gặp gỡ bè bạn, người thân. Theo lệ, người dân tự sửa soạn Slathođôn cho mình. Nhưng khách phương xa mỗi năm một đông nên nhiều gia đình khéo tay đã trở thành đầu mối cung ứng vật cúng cho các thiện nam, tín nữ. Tính ra mỗi kỳ lễ hội, An Trạch phải nhập hàng vạn trái dừa. Người dự hội thường cầu phước cho cả gia đình nên cũng sắm sửa luôn hương hoa, dầu gió, chỉ đỏ để lấy may, lấy phước về nhà. Dân gian quan niệm, đi lễ hội, viếng danh lam thắng cảnh là đem cái phước, cái lành về nhà. Người ta dâng cúng các vật phẩm như dầu gió, chỉ đỏ, cả hạt giống lúa, bắp, rồi mang về phòng khi trở trời trái gió có phương dược để khui phong; khi cưới xin có chỉ hồng buộc tay cho con cháu lấy hên; khi vào vụ có hạt giống lành gieo trồng để cầu cho mùa màng sung túc...
Nghi thức cúng dừa làm cho lễ hội Thác Côn mang nét đặc trưng riêng với cảnh tượng ngoạn mục hiếm thấy ở bất kỳ lễ hội nào. Tuy nhiên, nhìn từ sự tích đến thời điểm tổ chức, từ lễ vật đến nghi thức cúng bái, Thác Côn là hình ảnh của một lễ cầu an, làm phước theo truyền thống văn hóa của đồng bào Khmer ở Nam bộ trong bối cảnh giao lưu về tập tục, tín ngưỡng của các dân tộc anh em trong khu vực.
Trong mỗi kỳ lễ hội, vùng An Trạch đón hàng vạn lượt khách từ khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long về dự lễ. Họ đến đây vừa để trẩy hội vừa thành kính dâng hương khấn Phật cầu mong cho cuộc sống được bình an. Khách từ phương xa có đến lễ Cúng Dừa vào buổi tối cũng chẳng ngại lỡ độ đường, bởi đêm lễ hội Thác Côn là đêm thức trắng. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, vui chơi, giải trí diễn ra náo nhiệt, quán ăn, quán nước phục vụ tận sáng. Nam thanh, nữ tú của ba dân tộc có dịp giao lưu, kết bạn, An Trạch chan hòa không khí nô nức của đêm hội trăng rằm. Lễ Cúng Dừa kéo dài ba ngày, buổi chiều ngày thứ ba kết thúc lễ hội, nhưng dư âm vẫn còn đọng lại trên những trái dừa chất đống cao như núi trong sân miếu Thác Côn. Đó chính là lúc dân làng An Trạch thực hiện nghi lễ cuối cùng, nghi lễ đậm tính chất nông nghiệp, bắt nguồn từ tín ngưỡng cổ xưa mà những du khách ở phương xa ít có dịp chứng kiến. Nghi lễ do các bà lão và các thiếu nữ trong làng tiến hành. Họ lấy những hạt giống ngũ cốc đã được đặt trên bệ thờ suốt những ngày lễ hội, trước những lời cầu mong chứa chan ước vọng của khách thập phương. Họ lấy một ít tro, nhang từ các lư hương đầy ắp, cả những chân nhang cháy dở trong ngôi miếu thiêng, đặt vào cái mâm bạc chuyên dùng đựng các vật cúng của đồng bào Khmer. Những người phụ nữ An Trạch nối nhau đi ra đồng, đem những vật phẩm từ miếu Thác Côn để dâng cúng đất đai, cúng hồn lúa, cúng những vị thần bảo hộ cho ruộng vườn, làng mạc, tỏ lòng biết ơn mưa thuận, gió hòa đã đem lại cuộc sống sung túc cho nhà nông. Với niềm tin mộc mạc, thuần phác, những người phụ nữ làng An Trạch làm đúng những nghi lễ mà các bậc tổ mẫu xưa đã thực hiện. Họ rải những hạt giống lấy từ miếu Thác Côn lên các cánh đồng, rắc tro, nhang lên bờ ruộng để cầu mong những hạt giống ấy, những tro, nhang ấy trả về một mùa màng bội thu, cho cái chu kỳ bất tận của trời đất, nắng mưa luôn mang tới no ấm, hạnh phúc cho mọi người, mọi gia đình.
Lễ hội Thác Côn của đồng bào Khmer ở Sóc Trăng thể hiện ước vọng về sự an lành, hạnh phúc, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, người người có được cuộc sống an lành, giúp người ta nhớ về cội nguồn, tổ tiên, ông bà để sống chan hòa và yêu thương nhau hơn.
Lễ hội Nghinh ông được tổ chức vào ngày 22/3 âm lịch hàng năm, tại xã Trung Bình, huyện Long Phú với ý nguyện và lòng thành kính cầu xin cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà, tai qua nạn khỏi, khai thác được nhiều thủy hải sản.
Lễ hội Nghinh Ông cúng biển ở Kinh Ba đã có từ năm 1950, theo các cụ già vùng biển này kể lại thì thời đó, tại rạch Mù U, thuộc xã An Thạnh III ( huyện Long Phú), dân đi biển phát hiện một xác cá ông to lớn trôi dạt tại bờ kênh này. Dân địa phương đã vớt xác cá ông vào bờ lập miếu thờ cúng bằng tre lá đơn sơ. Sau năm 1982, ngư dân làng này làm ăn phát đạt nhanh chóng, mới dời hài cốt “Ông” cá ở An Thạnh III và cùng nhau vận động quyên góp vốn sang một khu đất rộng 2000 m2 xây miếu thờ cúng khang trang ở Kinh Ba như bây giờ. Dân làng đặt tên là Lăng Ông Nam Hải, thành lập ban Quản trị và ông trưởng vạn, có nhiệm vụ chăm sóc, bảo quản di tích Lăng Ông, thắp hương khói, thờ cúng hàng đêm.
Lễ hội được tổ chức như sau:
Mở đầu lễ hội là lễ rước kiệu ông ra biển, tàu đánh bắt thủy sản được trang bị cờ hoa rực rỡ lộng lẫy cùng các thức cúng như heo quay, trái cây, nhang đèn …tập trung ra cửa biển khiêng kiệu hài cốt Ông đưa xuống tàu và chạy thẳng về hướng biển Ðông để cầu khẩn “xin Keo” với những ý nguyện tốt đẹp. Tham gia vào đoàn rước có đến hàng trăm con tàu, dẫn đầu đoàn tàu là “thuyền rồng” rước Kiệu Ông, các thuyền ghe tàu khác nhắm hướng tàu dẫn đầu mà lướt theo. Trên thuyền rồng, các đào mặc đồ võ tướng, đánh trống, thao quyền, múa quyền rất nhộn nhịp ở mũi thuyền. Còn các vị hương thân, bô lão thì khấn vái ông phù hộ cho một mùa biển mới sung túc, an bình. Khi gặp cá ông và tiến hành việc cúng tế trên biển xong, đoàn ghe quay về để rước kiệu ông vào đình và tiến hành những nghi lễ cúng ông tiếp theo.
Phần hội với các trò chơi dân gian, vui chơi giải trí, thể dục thể thao và ca hát những tích tuồng cổ, nhằm tạo thêm sinh khí vui tươi, phấn khởi cho mọi ngư dân quên đi những ngày lao động cực nhọc và an tâm chuẩn bị cho chuyến ra khơi đánh bắt tôm, cá đầy tàu. Lễ hội kết thúc với việc đưa tàu thuyền ra biển khơi trong niềm hân hoan, tin tưởng của mọi người.
Vào ngày lễ hội khoảng hàng nghìn ngư dân trong khu vực với hàng trăm tàu đánh bắt thủy sản của Sóc Trăng và các tỉnh lân cận như Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang, Bạc Liêu … đến dự tạo nên một lễ hội đậm nét văn hóa dân gian của các ngư dân vùng biển.
Lễ hội Nghinh Ông được xem là một trong những ngày lễ mang đậm tính truyền thống của những ngư dân vùng biển. Theo tín ngưỡng lâu đời, tục thờ cá Ông là một nét đặc sắc trong đời sống tâm linh vì cá Ông là một vị thần luôn giúp ngư dân vượt qua những phong ba bão táp, mang lại mùa thu hoạch hải sản bội thu.