Festival Huế đầu tiên có tên là Festival Việt-Pháp được tổ chức năm 1992. Cho đến năm 2000 thì đổi tên là Festival Huế. Là một trong những lễ hội lớn, Festival Huế với nhiều chương trình lễ hội cộng đồng được tái dựng với một không gian rộng lớn cả trong và ngoài thành phố, góp phần làm sống lại các giá trị văn hóa của Huế.
Nhiều chương trình như: Đêm Hoàng cung, lễ tế Nam Giao, lễ Truyền lô và Vinh qui bái tổ, lễ hội áo dài, lễ hội biển, thả diều, thả thơ, diễn thơ, chợ quê ngày hội, cờ người, đua trải...
Thành phố Huế còn phục dựng những lễ hội khác như: Tái hiện lễ hội Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung, tổ chức lễ hội thi Tiến sĩ võ, khai thác không gian văn hóa tại khu Hổ Quyền - Voi Ré... Từ những lễ hội này, có nhiều ngành nghề thủ công truyền thống đang dần hồi phục, tạo được dấu ấn riêng khá rõ và góp phần làm giàu thêm cho vùng đất Cố Đô.
Festival Huế 2006 có 22 đoàn nghệ thuật Việt Nam (với 1171 diễn viên) và 22 đoàn, còn nhóm nghệ thuật quốc tế (269 diễn viên, nghệ sĩ nước ngoài), biểu diễn 138 suất diễn tại hơn 40 điểm diễn cùng với hơn 40 hoạt động trình diễn nghệ thuật, hội thi, hội chợ, triển lãm, hội thảo khoa học cùng các hoạt động hưởng ứng khác đã thu hút 1 triệu 500 nghìn khách tại Việt Nam và 150 nghìn khách quốc tế đến từ 50 quốc gia.
Festival Huế 2010 có các đoàn nghệ thuật của 27 nước tham gia, trong đó có nhiều quốc gia lần đầu tiên có mặt như Cuba, Haiti, Senegal, Đan Mạch, Na Uy, Ba Lan, Mexico, Mông Cổ. Pháp vẫn là đối tác chính, với tám đoàn nghệ thuật tham gia lễ hội. Ngoài hơn 550 nghệ sĩ nước ngoài, Festival Huế còn có hơn 2.300 nghệ sĩ trong nước (800 nghệ sĩ chuyên nghiệp và 1.500 nghệ sĩ nghiệp dư) đến từ hơn 30 đoàn, nhà hát, đơn vị nghệ thuật trong cả nước.
Chương trình biểu diễn nghệ thuật mang đậm sắc thái văn hóa của 5 châu lục đến từ nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới: Pháp, Trung Quốc, Anh, Ý, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Brasil... cùng sự tham gia của các thành phố, tỉnh, vùng kết nghĩa với Thừa Thiên-Huế như Québec, Quang Chu, Hawaii, Nord Pas de Calais, Poitou Charentes, Chiết Giang...
Lễ hội Cầu Ngư là một trong những sinh hoạt văn hóa mang đậm yếu tố tâm linh của ngư dân vùng cửa biển. Nó gắn với các tín ngưỡng thờ cá - là vật tổ từ xa xưa của cha ông ta trong những ngày đầu di dân về phía biển. Lễ hội được tổ chức trang nghiêm, hoành tráng vào ngày mồng 3 tết hàng năm.
Từ xa xưa, khi khoa học còn lạc hậu, con người chỉ dựa bằng vốn sống và kinh nghiệm thực tế chứ hoàn toàn không dựa trên cơ sở khoa học. Chính vì thế mà không biết bao nhiêu con thuyền cùng với những sinh mạng bị nhấn chìm dưới đáy sông. Từ đó, người ta bắt đầu tin vào sức mạnh vô hình siêu nhiên nào đó, họ vừa sợ hãi, vừa cầu mong sự che chở. Cho nên lễ hội cầu Ngư có nguồn gốc từ đó.
Trong quan niệm của những người đi biển ở đây thì "cá ngài" là chúa tể của muôn loài chốn biển khơi. "Cá ngài" là biểu tượng về sự thiêng liêng, uy quyền. Đồng thời mọi biểu hiện của cá đều là sự dự báo chính xác về mọi đều tốt, xấu, may rủi cho một năm, một vụ mùa hay một sự kiện liên quan tới nghề biển.
Trong lễ hội Cầu ngư chủ yếu chỉ có phần lễ. Phần lễ được tiến hành một cách đơn giản nhưng đầy không khí trang nghiêm thành kính.
Đúng 5 giờ sáng phía Nam Cửa Hội có 3 hồi trống trầm ấm, dõng dạc do một vị bô lão trong trang phục áo the, khăn đóng chỉnh tề đánh. Khi tiếng trống vang lên thì 3 chiếc thuyền lớn từ bờ bắc xếp theo hình mũi tên : một chiếc hơi nhô về phía trước, hai chiếc còn lại song song áp sát theo sau từ từ tiến ra giữa dòng.
Cả ba con thuyền này thuộc vào loại lớn nhất trong vạn chài, nó có kích thước, chủng loại gần giống nhau, chỉ trừ thuyền đi trước to, mũi cao hơn một chút, còn hai thuyền sau đều giống nhau. Cả 3 thuyền này đều được trang hoàng rực rỡ, trên mũi của thuyền được thắt một tấm vải đỏ (biểu tượng cho sự may mắn). Phía hai bên đầu thuyền là hai con mắt được vẽ nổi, cả ba thuyền trong lúc hành lễ đều phải là thuyền chèo. Thuyền đi đầu tiên gồm có 9 người, trong đó có 8 tay chèo do 8 thanh niên khỏe mạnh và có kinh nghiệm đi biển. Tất cả đều phải trong trang phục của ngư dân xưa : áo quần nâu mành cánh buồm đều tay đưa thuyền ra giữa "Lạch". Còn người cuối cùng trên thuyền là một ngư ông cao tuổi - đây là linh hồn của lễ hội Cầu Ngư. Ông phải là người đi biển nhiều năm, am tường mọi biến thiên về thời tiết của vùng, đồng thời là người có uy tín và có tiếng nói nhất được mọi người nể phục. Ông sẽ là người giữ vai trò chủ tế được cả làng cử ra trước đây.
Một điều hết sức đặc biệt là ngay con thuyền này còn chở "cá ngài" với chiều dài gần hết con thuyền. “Cá ngài” ở đây được làm bằng nhựa mềm và có vẻ rất giống thật.
Hai con thuyền còn lại ở hai phía đều có người. Trong 9 người mỗi thuyền thì đã có 8 người thay nhau chèo còn người thứ 9 trong thuyền giữ vai trò là thuyền trưởng cả đội. Người này phải chịu trách nhiệm điều hành mọi hoạt động theo nghi thức đặc biệt theo sự phân công, ra hiệu từ con thuyền phía trước do vị chủ tế giao phó. Có một điểm khác so với con thuyền phía trước là cả hai con thuyền này đều phải chở đầy lưới sạch, được xếp trong tư thế như sắp đánh cả. Ở phần đầu giữa mũi con thuyền cũng có hương án bày đầy đủ hương đăng, hoa quả và lễ vật.
Cả ba con thuyền chầm chậm tiến ra vị từ giữa dòng trước sự chứng kiến của hàng chục vạn người. Khi cả 3 thuyền ra đến giữa dòng thì lập tức mũi thuyền đồng loạt hướng về phía biển Đông theo hướng chỉ tay của vị chủ tế. Thuyền ra giữa trung tâm "Lạch" - đó là lúc phần lễ cầu Ngư - Cửa Hội chính thức bắt đầu.
Khi phần lễ được bắt đầu cũng là lúc trống từ hai bờ Bắc Nam cất lên khoan thai, trịnh trọng. Vị chủ tế đứng thẳng, mắt hướng về phía “Lạch”, hai tay đan nhau để lên trán đọc lời cầu lễ. Đó là lời cầu nguyện của đại diện cho hơn 4 vạn dân cầu mong cho một năm gió thuận, mưa hòa, trời yên biển lặng, tôm cá sinh sôi, ngư dân gặp nhiều may mắn. Cứ sau mỗi đoạn tế ngắn thì vị chủ tế quỳ xuống, dập đầu lạy ba lạy, hai vị thuyền trưởng còn lại cũng hành lễ theo trong sự yên lặng theo dõi của mọi người hai bên bờ. Cứ sau mỗi một đoạn tế ngắn vị chủ tế tiếp tục cầu nguyện, còn hai thuyền trưởng sẽ ném dần lễ vật như hương vàng, gạo, hoa quả đèn xuống cửa sông.
Phần lễ được tiến hành trong vòng khoảng 30 phút, kết thúc phần lễ, vị chú tế cùng hai truyền trưởng phía sau dập đầu lạy chín lạy. Xong đâu đó 2 thuyền trưởng của 2 thuyền kia sẽ nhảy sang thuyền lớn trong tiếng trống đổ dồn cùng vị chủ tế đưa "cá ngài" xuống của sông. Việc đưa "cá ngài” xuống nước mang đầy ý nghĩa, đó là sự trở về với giang sơn biển cả, của chúa muôn loài. Đồng thời, khi trở về vật tổ đã mang trong mình đầy đủ những thông điệp cũng như những lời nguyện cầu của muôn dân về một năm may mắn, tốt lành. Đây cũng là lúc mọi người cảm thấy nhẹ nhõm, trong lòng trở nên phấn trấn và tự tin hơn.
Nhưng đến đây không phải ba thuyền đã hoàn thành phần việc của mình, mà qua phần nguy hiểm của "lạch” một quãng thì vị chủ tế lại trèo lên cột thuyền, nơi có vị trí cao nhất để chỉ huy việc đánh lưới,một mẻ lưới được tiến hành có sự phối hợp đồng bộ giữa 3 con thuyền. Khi lưới được vây kín đến gang tay cuối cùng thì cũng là lúc hàng trăm thuyền máy lớn nhỏ đồng loạt khởi động chạy ra tham gia vui hội và "chia phần”. Những con thuyền này cố lượn thật sát mẻ lưới đầu tiên đầy thiêng liêng này và múc nước ở đó đổ vào lòng thuyền mình. Họ cho rằng làm như vậy thì mọi may mắn trong năm sẽ đến với thuyền mình. Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ "chia phần”, các con thuyền này sẽ chạy vòng ngoài nhường chỗ cho những con thuyền khác ở vòng ngoài vào ’lấy lộc”.
Trong khi các con thuyền liên tục vào ra thì ba con thuyền hành lễ ban đầu vẫn miệt mài với công việc của mình. Họ tiến hành thủ tục đánh cá như thật, cá thu được có khi lên đến hàng tạ. Dù không nhiều song những năm như thế mọi người hoan hỉ lắm. Vì họ cho rằng đó là điềm báo, là dấu hiệu một năm bội thu hoặc là sự linh ứng nhãn tiền của vật tổ khi mẻ lưới cuối cùng được kéo lên thì cũng là lúc tất cả các con thuyền tham gia lễ hội hướng hết mũi ra biển Đông đã vượt “lạch”. Sau khi vượt "lạch" một quãng họ lại quay mũi hướng thuyền về phía bờ trong tiếng hò reo hoan hỉ của mọi người.
Trong quá trình đó người ta vẫn thắp nhang tiếp tục cầu mong sự may mắn và như để vơi bớt nỗi oan khuất cho những người trước kia đã nằm lại nơi đây.
Lễ hội Cầu Ngư là dịp bày tỏ lòng thành kính của ngư dân vùng này với "cá ngài", cầu mong sự che chở, tốt lành bội thu và cũng như để xua đi mọi điều xấu đồng thời còn là dịp để người ta cúng tế những vong hồn oan khuất và vĩnh viễn ở lại với biển nhằm xoa dịu nỗi đau của những người ở lại
Hàng năm hai lần vào dịp xuân tế (mồng 2, mồng 3 tháng 3) và thu tế tháng 7, Điện Hòn Chén tại làng Hải Cát, huyện Hương Trà, Thừa Thiên- Huế lại tấp nập người trẩy hội Thiên Y A Na Thánh mẫu.
Nghi lễ diễn ra rất long trọng. Dân làng tổ chức tế tại đình, trước ngày chánh tế có lễ nghinh thần để rước tất cả các vị thần trong làng về đình. Trong đó đám rước Thiên Y A Na Thánh Mẫu từ Huệ Nam đến đình làng Hải Cát tổ chức trọng thể hơn cả.
Lễ hội giống như một festival về văn hóa dân gian trên sông Hương, tấp nập những chiếc thuyền kết đôi với cờ phướn mà người dân gọi là chiếc "bằng", hương án đủ màu sắc, hành hương về điện Hòn Chén, nơi thờ Thánh Mẫu. Tại khu vực điện sẽ diễn ra Thánh Mẫu tuần du làng Hải Cát, lễ tế làng Hải Cát, lễ cung nghinh Thánh Mẫu hồi loan về điện, lễ phóng sanh, phóng đăng...
Ðám rước cử hành trên những chiếc bằng. Trên mỗi bằng có bàn thờ Thánh Mẫu cùng với long kiệu. Trên long kiệu có hòm sắc của vua ban Thánh Mẫu, liền kế đó là một bằng khác có bàn thờ, kiệu và hòm sắc của nhị vị thượng Ngàn và Thuỷ Cung Thánh Mẫu. Sau đó là những chiếc bằng chở các tự khí, tàn tán cờ quạt.
Trải qua những thăng trầm lịch sử, những năm gần đây lễ hội này đã được phục hồi theo các tập tục truyền thống mang đậm màu sắc văn hóa dân gian địa phương. Lễ hội điện Hòn Chén còn được gọi là Lễ Vía Mẹ, không chỉ là của những tín đồ Thiên Tiên Thanh Giáo, mà còn là của những người theo đạo thờ Mẹ, đạo hiếu, đạo làm người. Theo ý nghĩa đó, việc phục hồi lễ hội điện Hòn Chén là phục hồi một giá trị văn hóa truyền thống của một vùng đất.
Lễ Hội Cầu Ngư là hội của nhân dân làng Thai Dương Hạ xã Hương Hải làng Thai Dương Hạ, thị trấn Thuận An, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế. Hội được tổ chức vào ngày 12 tháng Giêng để tưởng nhớ vị thành hoàng của làng là Trương Quý Công biệt danh của Trương Thiều, người gốc miền Bắc, có công bày cho dân nghề đánh cá và buôn bán ghe mành.
Từ chiều hôm trước ngày khai mạc, hai giáp Thượng và Hạ đã bắt đầu cúng đế. Đến khuya, một buổi tế "cầu an, cầu ngư" lại được cử hành. Một vị cao tuổi trong làng thông thạo nghi lễ đọc bản văn tế. Tất cả các chủ thuyền ăn mặc chỉnh tề áo dài đen, quần trắng, đầu chít khăn đỏ lần lượt vào làm lễ. Phía nữ giới có một đại diện.
Hội này có lệ đặc biệt là cứ ba năm một lần tổ chức các trò diễn tả những sinh hoạt nghề biển. Tại sân đình người ta làm "trò bủa lưới", diễn tả cách bủa lưới trên bờ. Ở mặt phía trước đình cách khoảng 100m có trình diễn trò "quệu, giạ xúc ruốc", diễn tả cảnh dùng lưới đan trên hai thanh tre chéo trước mũi thuyền đi xúc. Vào lễ, một ông chấp lệnh sau khi van vái cho dân làng được mạnh khỏe, làm ăn thịnh vượng, cầm khăn đỏ lót dùi trống đánh ba hồi khai mạc buổi lễ. Ngoài sân đình, một vị cao tuổi mặc lễ phục tiến vào, đi kèm có hai chủ thuyền đầu bịt khăn đỏ, trang phục theo nghề nghiệp cùng vào lễ, nhưng hai vị này vái lạy lung tung khắp mọi phía, làm đủ mọi điệu bộ khôi hài cốt để gây cười. Một hồi trống lệnh gióng lên, các vị hành lễ đứng về một phía. Trên bàn thờ tổ, một vị cao niên tung tiền và phẩm vật cúng xuống sân đình cho các em tranh nhau vào nhặt. Cùng lúc đó, đám chủ thuyền khiêng một cái ghe mành cốt bằng tre, đan chắc chắn, phết giấy đỏ trên có một người ngồi, tiến vào sân đình chạy quanh đám trẻ. Lưới trên truyền được bủa vã vây lấy đám trẻ thành vòng tròn, càng lúc càng thu hẹp, thuyền được khiêng chạy vòng tròn trong tiếng pháo tưng bừng nổ. Giai đoạn "bủa lưới nậu lưới" tiếp diễn sôi nổi. Các đứa trẻ tượng trưng cho đàn cá đang ăn mồi cố tìm cách thoát ra khỏi lưới. Các chủ thuyền người thì hụ "cá", người thì ngoắc "cá" cố hết sức giữ không cho "cá" thoát lưới. Khi vòng tròn được thu nhỏ lại, các chủ thuyền vào bắt một vài "con cá" đem lên bàn cúng Thành Hoàng. Lễ xong, một số "cá" được gánh trong trạc đưa ra bờ biển để rửa nước muối, một số cá được đem bán. Các người mua "cá" (trước kia do nam giới hóa trang mặc áo hai lớp, trong đỏ, ngoài lục, đeo bông tai) đến trả giá, mặc cả ồn ào như buổi bán cá thực sự. Đó là nghi lễ làm trò ruỗi bộ (bán cá trên đường). Các chủ thuyền "bán cá" xong kéo nhau vào một địa điểm (có thể là sân chùa hoặc trước một miếu thờ cạnh đình) để "chia tiền cá". Họ cũng bàn tán ồn ào. "Chia tiền bán cá " xong kể như lễ tất. Mọi người tụ tập ở bờ phá để xem để xem đua trải.
Trò diễn "làm trò bủa lưới" là một hình thức "hèm" để tưởng nhớ đến sự nghiệp của vị Thành Hoàng của làng. Vì thế có thể cho đây là trò diễn trình nghề đậm đà tính chất lễ nghi.
Hàng năm, lễ cầu mùa của dân tộc Tà Ôi tỉnh Thừa Thiên-Huế được tổ chức sau Tết âm lịch. Thường thì từ 3-5 năm người ta mới tổ chức một lần vào những năm có những sự kiện quan trọng như: tạ ơn Yang (Trời) về việc liên tục được mùa hoặc cầu được mùa nếu mùa màng thất bát, cầu sức khoẻ...
Lễ hội thường tiến hành trên nhà rông và trong sân chung của làng. Chủ lễ là một già làng, và 7 già làng khác tham gia phụ lễ. Lễ vật dâng cúng gồm: cây chuối có buồng quả, mía nguyên cây, rượu cần, trâu, dê, gà, chuột nướng trong ống tre, cá nướng bằng que, xôi, cốm, gạo... Vật dùng để làm lễ cúng có axom (một chùm sợi xoăn được tước nhỏ từ một cành hóp dùng để vẩy nước, vẩy rượu cúng lên xà nhà) và asiêu (một khúc gỗ tròn dài khoảng 15cm, được bổ đôi thành hai mảnh, mặt phẳng của mỗi mảnh được vẽ bùa chú trang trí) dùng để xin keo (bói âm - dương), ngoài ra còn có kiếm, khiên và dải vải gièng để phủ lên đầu trâu trước khi đâm.
Buổi sáng ngày thứ nhất của lễ hội, người ta làm lễ xin đất chôn nọc (nêu) buộc trâu. Chủ lễ và phụ lễ cầm kiếm, khiên, khấn vái, sau đó chủ lễ úp khiên xuống đất, chỗ xin nọc buộc trâu. Đó là chỗ dựng cây nêu chính. Dựng xong nọc buộc trâu, người ta tiếp tục dựng nọc buộc dê và nọc buộc lợn (cây nêu phụ), những con vật sẽ bị giết thịt làm lễ vật cúng trời và cúng bên khô - bên nước. Các lễ vật cúng khác để cầu mùa bao gồm: gùi lớn, gùi nhỏ (achói, até), kiếm, khiên, chiêng, cồng, ché, gạo... cùng bánh nếp đã được bóc vỏ và cá nướng, mỗi thứ một ít. Sau các nghi thức cúng xin dựng nêu, chủ lễ tay cầm ống tre ngắn (trong đựng cám gạo và nước) có cắm axom vừa khấn, vừa đổ ống cám gạo xuống chân nọc buộc trâu trong tiếng cồng chiêng, tù và và tiếng hô hú. Tiếp đó, một nhóm được tách ra, đi đầu là phụ lễ tiến về phía núi, vừa đi vừa vung gạo lên trời và khấn mời thần linh về dự hội với buôn làng. Khi trở lại sân chung, tất cả đoàn bắt đầu nhảy múa, di chuyển quanh sân theo chiều ngược kim đồng hồ, sau đó lên nhà sàn để làm nghi lễ Vung cơm trộn lá (tượng trưng cho sự cầu mùa được no đủ) và ném axom (thể hiện sự hiển linh chứng giám của trời đất). Những người khác đưa hai mâm cúng xuống sân, đặt trước mũi trâu. Chủ lễ và phụ lễ tiến hành vung cơm vào đầu trâu rồi tất cả cùng hô hú.
Lễ Bahs - lễ mời các Yang về chung vui - là nghi thức tiếp theo được cúng trên nhà sàn. Lễ vật cúng có gà luộc, cá nướng, xôi, bánh nếp đã bóc vỏ... Dưới sân mọi người mổ lợn, làm lễ cúng xin phép thần vào ngày hôm sau làm cho lễ đâm trâu, đâm dê. Lễ cúng có 3 mâm, trên có bày đầu, đuôi lợn, một xâu gan lợn, một bát cơm có cắm 2 bánh nếp đã bóc sẵn và một bát nạp..., ngoài ra còn có một cây chuối nguyên buồng, một cây mía và một vò rượu cần đặt bên cạnh một bát nhựa cây đang cháy. Sau khi xin keo (bói thẻ gỗ) để được sự đồng ý của thần linh, thầy cúng cho các mâm cúng lên nhà sàn để làm lễ xua đuổi điều dữ, đón điều tốt lành.
Sáng sớm ngày thứ hai, cả làng đã chuẩn bị nhảy múa (ađứt) để đón khách các làng bên sang dự lễ cầu mùa và lễ đâm trâu. Đoàn khách tới cùng nhảy múa quanh sân 3 vòng, theo chiều ngược kim đồng hồ. Vừa múa, già làng vừa mời các bạn ăn thịt, ăn bánh nếp và uống rượu. Múa xong các già làng trong đoàn bạn cùng các già làng chủ nhà lên nhà sàn để chủ lễ mời ăn uống và hội ý phân công người đâm trâu. Sau khi đã nhất trí, các mâm cúng được mang xuống đặt trước nọc trâu. Các già làng bưng một đĩa gạo và hành sống vãi vào con trâu. Một cô gái dỡ gùi lấy vải dâng cho chủ lễ. Chủ lễ đưa tấm vải cho phụ lễ làm phép trên đầu trâu, rồi cho cất đi. Đến đây, hai già làng được quyền đâm trâu.
Trâu được mổ tại chỗ. Dê được khiêng đi làm thịt. Sau đó người ta lấy đầu, chân trâu sống, đầu dê sống cùng với thủ, đuôi lợn luộc, gà luộc và các lễ vật khác, xếp vào 7 mâm, đem đặt xuống gốc nọc trâu để cho già làng cúng và đội múa của làng múa xung quanh.
Sau đó người ta lấy một cây nêu nhỏ, ở giữa có treo một giỏ tre cắm vào trước cây nêu chính rồi chủ lễ và hai già làng vừa khấn vừa vẩy nước lên giỏ đựng vật cúng ở cây nêu nhỏ. Làm xong, các già làng cùng ngồi trong lều vải để khấn tập thể. Sau khi khấn, xin keo, ném axom xong, các già làng chia thành hai nhóm cầm theo cây nêu nhỏ, một đi về phía bờ sông, một đi về phía núi để khấn với sự phụ hoạ của đội nhạc múa. Cúng xong họ lấy lộc chia nhau ăn tại chỗ rồi về sân nhà rông. Các vật cúng còn lại được chuyển lên nhà sàn. Lúc này đội múa bắt đầu hát Ca lơi và thổi tù và tiễn khách cùng các già làng..., lễ cầu mùa kết thúc
Hội đua ghe truyền thống tỉnh Thừa Thiên Huế là một ngày lễ hội mới được tổ chức sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam 1975. Hội được tổ chức trong một ngày, nhằm ngày lễ Quốc Khánh 02-9 (dương lịch). Địa điểm đua là bờ Sông Hương trước trường Quốc Học. Hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên nam nữ có cơ hội thi tài trên sông nước, qua đó rèn luyện tăng cường bảo vệ sức khỏe và tạo không khí vui tươi lành mạnh cho nhân dân. Đây cũng là dịp để biểu lộ lòng vui mừng của nhân dân vào ngày Quốc Khánh. Quy mô hội có tính chất rộng rãi liên phường xã và các huyện trong tỉnh. Hội tổ chức theo định kỳ, mỗi năm một lần theo phong tục.
Vào ngày lễ. Ban tổ chức tuyên bố thể lệ dự giải và chương trình đua bơi gồm có một độ cúng, 7 độ tiền và một độ phá (9 đội đua). Mỗi đội đua phải qua 3 vòng, 6 tráo, riêng độ 7 và 3 độ tiền của nữ là hai vòng bốn tráo. Đội đua bắt đầu bằng một lệnh trống (1 hồi chiêng). Các ghe đua 3 vè chính dọc Sông Hương, lộn vè rốn lúc xuất phát và vòng cuối lúc vào đích. Đây là một tập tục truyền thống vốn được nhân dân mến chuộng từ các lễ hội cổ truyền. Đua trải, đua ghe luôn là một môn thể thao hấp dẫn, biểu thị sức khỏe và tài năng khéo léo của thanh niên nam nữ.
Đối tượng tham gia lễ chủ yếu là thanh niên nam nữ các phường xã thuộc các huyện và thành phố cũng ra sức đua tài trên sông Hương. Các người lớn tuổi và trẻ em thì ra sức cổ vũ nên không khí cuộc đua bao giờ cũng sôi nổi, hào hứng.
Nếu các cuộc đua ghe ở các làng mạc xa xưa có ý nghĩa và mục đích để cầu mưa thuận gió hòa thì cuộc đua ghe truyền thống hiện nay không giữ lại mục đích đó, mà dịp để tỏ lòng hân hoan và thi tài thể lực nhân ngày Quốc Khánh. Lễ hội này vẫn còn được tổ chức, đem lại nguồn vui cho cả vận động viên lẫn dân chúng trong tỉnh.
Được tổ chức vào ngày 10 tháng Giêng âm lịch hàng năm, Lễ hội đấu Vật làng Sình được tổ chức tại khu vực đình làng Lại Ân (còn gọi là làng Sình), xã Phú Mậu, huyện Phú Vang (TT-Huế). Đây là một hoạt động văn hoá truyền thống, giàu tinh thần thượng võ của người bản địa. Các đô vật sẽ thi đấu theo thể thức vòng tròn.
Những người già ở làng Sình kể lại, hội vật truyền thống của làng đã có lịch sử hơn 200 năm, và phát triển liên tục cho đến nay. Hội vật này khác hẳn với hội vật ở một làng quê khác, bởi người dân tổ chức hội vật như một hình thức giải trí đơn thuần sau những ngày tết chứ không vì mục đích tuyển chọn võ sĩ cho triều đình phong kiến lúc bấy giờ. “Lệ” làng cũng quy định, các đô vật dự đấu không nhất thiết phải là người địa phương, và bất kỳ khán giả nào cũng có thể được lên sới đấu vật. Ngoài giải Cạn dành cho chức vô địch, làng còn dành riêng một khoản tiền để thưởng cho tất cả những đô tham gia hội vật. Có thể do điều kiện dự hội khá đơn giản, nên ngày xưa, cứ đến trước ngày làng mở hội vật, trai tráng khắp nơi theo nhau về làng Sình.
Hội vật làng Sình về cơ bản cũng áp dụng theo nguyên tắc của luật thi đấu vật dân tộc, các đô vật muốn vượt qua vòng đấu loại phải giành chiến thắng trước 3 đối thủ, để giành chiến thắng, các đô vật phải đánh bại đối thủ của mình với đòn đánh làm cho đối phương "lấm lưng, trắng bụng" (nghĩa là một phần hoặc cả hai phần lưng của đối phương phải lấm đất, bụng ngửa lên trời). Nếu vượt qua vòng đấu loại, các đô vật sẽ bước vào vòng bán kết. Ở vòng bán kết, các đô vật phải vượt qua 1 đối thủ nữa mới lọt được vào vòng chung kết.
Hội vật làng Sình rất chú trọng tinh thần thượng võ vì thế các đô vật không được ra các đòn đánh nguy hiểm đến tính mạng như bẻ, vặn, khoá trái khớp, tấn công bằng đầu, bấm các huyệt, nắm tóc, tấn công vào hạ bộ, yết hầu, mắt.... Một nét độc đáo ở lễ hội làng Sình là tinh thần đồng đội ở các địa phương, một đô vật của làng nào bị thua sẽ có đô vật khác lên tiếp sức. Nếu để thua một trận các đô vật phải chờ đến năm sau mới "phục hận" được, vì thế các đô vật thường rèn luyện suốt năm, tu dưỡng đạo đức để chờ đầu xuân tham dự, tranh tài.
Hội vật Làng Sình ngoài yếu tố tâm linh như mong cho dân khoẻ, làng yên, mùa màng tươi tốt, hạnh phúc đến với muôn người còn là một hoạt động vui, khoẻ đầy tinh thần thượng võ, kích thích việc rèn luyện sức khoẻ, lòng dũng cảm, sự tự tin, mưu trí đối với lớp trẻ
Lễ cúng âm hồn được tổ chức vào ngày 23 tháng 5 âm lịch. Đây là một hình thức cúng tế mà đơn vị tổ chức nghi lễ vừa có tính chất đơn lẻ trong từng gia đình, lại vừa có tính chất cộng đồng trong từng đoàn thể, tổ chức, tập thể những người cùng chung một ngành nghề, cùng ở trong một thôn, xóm, phường.
Tại sao toàn dân Huế lại tổ chức cúng âm hồn?
Ngày 1-8-1883, Pháp nã đại bác vào Thuận An. Tối 20 tháng 8, Thuận An thất thủ; đột phá khẩu vào kinh thành đã mở. Triều đình hoang mang lo sợ, chỉ có Tôn Thất Thuyết cương quyết lập trường đánh Pháp. Cuộc chiến đấu tự vệ mà ông và các đồng sự ráo riết chuẩn bị từ lâu đã đến lúc phải bùng nổ. Đêm 04-7-1885, Tôn Thất Thuyết chỉ huy cuộc vũ trang chống Pháp. Đánh vào sào huyệt giặc ở Mang Cá và khu Tòa Khâm bên sông Hương. Quân ta chiến đấu rất gan dạ. Tôn Thất thuyết bố trí cuộc tấn công rất chu đáo, nhưng vì khí giới kém nên bị thua trận. Địch chiếm thành và đốt phá, hãm hiếp, giết chóc cướp bóc không từ một ai. Một cuộc chạy loạn hết sức đau thương và bi thảm xảy ra. Hầu như không có gia đình nào lại không có người bỏ mạng trong biến cố này. Chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là số dân chúng ở trong thành. Ngày 23 tháng 5 âm lịch (5-7-1885) từ đó trở về sau đã biến thành ngày giỗ lớn, ngày "quẩy cơm chung" hằng năm của cả thành phố Huế. Họ cúng cho tất cả những người tử nạn: quân sĩ, dân chúng, quan lại, thợ thầy, do nhiều nguyên do: hoặc bị dày đạp, chen lấn nhau mà chết, hoặc bị đạn Pháp, hoặc bị ngã xuống thành khi tìm cách leo ra khỏi thành, hoặc sỉa chân rơi xuống hồ ao dày đặc trong thành, nhất là hồ Tịnh Tâm v.v... trong khoảng từ 2 giờ đến 4 giờ sáng ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu.
Ngày chính cử hành nghi lễ là ngày 23 tháng 5. Nhưng đối với các tư gia thì có thể tùy theo từng gia đình mà tổ chức từ 23 tháng 5 đến 30 tháng 5.
Với các tổ chức tập thể và thôn phường trong thành phố, ngày cúng lễ cũng không quy định một cách cứng rắn. Nhưng thông thường ngày chính lễ vẫn là ngày 23 tháng 5. Những tổ chức cúng âm hồn ngày 23 tháng 5 là do nhân dân tự động kết hóp tổ chức ở các thôn, xóm, phường, xã ở trong tỉnh, các người cùng nghề nghiệp, chung sinh hoạt như tiểu thương các chợ lớn, nhỏ, các khuôn hội, chùa chiền, các tổ chức từ thiện. Hầu như toàn thể gia đình và tổ chức tập thể ở Huế đều nao nức cúng âm hồn do xuất phát từ lòng cảm thương những người bị chết trong biến cố một cách bi thương và oan uổng, hồn bơ vơ vất vưởng, không có ai cúng cấp cho nên cúng âm hồn có ý nghĩa cao đẹp là công cho "thập loại chúng sinh" chứ không hẳn cúng cho thân nhân trong gia đình mình. Tính nhân bản rộng lớn vả đẹp đẽ là ở chỗ đó
Trong ngày lễ vô số rạp được dựng lên để cúng âm hồn trong thành phố. Nhạc cúng lễ vang động khắp nơi, hương trầm nghi ngút tỏa cả đêm lẫn ngày. Ban đêm các thời cúng của từng gia đình được đặt trước mặt nhà, hương đèn được đặt sẵn.
Lễ vật cúng ít nhiều tùy gia cảnh nhưng tối thiểu phải có chè, cháo, gạo muối, bông ba hoa quả, hương, nhang trầm, hột nổ, áo binh, giấy ngũ sắc cau trầu rượu. Đặc biệt trong lễ cúng, từ gia đình cho đến tập thể, phải nhớ có một bình lớn nước hoặc một thùng nước chè đầy và một đống lửa đốt bên cạnh bàn thờ cúng. Người cúng tin rằng các âm hồn sẽ đến uống nước và sưởi ấm bên đống lửa, vì nhiều người trong biến cố đã chết khát, và chết lạnh lẽo dưới ao, hồ, sông suối.
Đó là lòng thương người chết vất vưởng dọc đường, dọc sá nên bàn cúng phải đặt trước sân (nếu là người thân và chết ở trong nhà thì mới bày bàn cúng ở bàn thờ). Rõ ràng tập tục cúng âm hồn này thể hiện một tấm lòng nhân hậu bao la của người cư dân xứ Huế.
Nghi thức cúng âm hồn trang trọng nhất được tổ chức tại các am miếu trong thành phố Huế. Miếu âm hồn được thành lập lâu năm nhất là ngôi miếu ở góc đường Mai Thúc Loan và Lê Thánh Tôn hiện tại, nằm ở phía đông nội thành, cách cửa Đông Ba chừng 300 mét, ngôi miếu này được xây dựng vào năm 1895, sau biến cố thất thủ kinh đô mười năm, trải qua các cuộc đổi thay, nay vẫn còn.
Tiến trình nghi lễ cúng tại miếu âm hồn hằng năm như sau:
Ngày 22 tháng 5, dựng rạp ngoài trời, trang hoàng khu vực cúng tế ở miếu và bàn cúng lễ ở ngoài trời. Có năm lại thiết lập đài chiến sĩ trận vong trước miếu.
Sáng 23 tháng 5, khoảng 7 giờ sáng làm lễ khai kinh, tụng kinh.
Trưa 23 tháng 5, cúng ngọ theo nghi thức tôn giáo.
Chiều 23 tháng 5, lúc 14 giờ làm lễ tế cúng âm hồn theo nghi thức tế lễ của Khổng giáo. Quan trọng nhất là ông chủ tế và ông xướng lễ. Tại đài chiến sĩ trận vong thì làm lễ truy điệu.
Buổi lễ kéo dài suốt cả buổi chiều. Phần chính trong buổi lễ là đọc văn tế. Qua nhiều bản văn tế sưu tầm được, chúng ta thấy người viết văn đã truyền một niềm xúc động vô biên cho người dự lễ:
“Lô nhô trẻ dìu già, ông dắt cháu, chân còn đi đầu gục lìa vai.
Lao nhỏ con khóc mẹ, vợ kêu chồng, tiếng chưa ngớt xương đã chất đống.
Oan uổng quá mấy ông trên võng, thình lình sét đánh, sống chẳng trọn đời.
Tội tình thay lũ trẻ trong nôi, cắt cớ sao sa, chết đờ trắng bụng.
Thương mấy cụ khiêng sơn nón đấu, nặng nợ cơm vua áo chúa, được da ngựa bọc thây mới sướng, tức vì sao "tử bất thành danh"
Tủi mấy cô áo chít quai trơn, vui niềm tài tử giai nhân, nỡ vũng bùn chôn ngọc cho cam, uổng cái sổ “sanh nhi vô dụng".
Trước một trận mưa đen mịt tối, tất thảy người mà tự thảy quỷ, một vùng chôn kẻ cực người sang. Sau ba hồi trống dục loa dồn, biết phận là biết đâu duyên, ba thước lấp anh hay chú vụng".
Người gây ra thảm cảnh đó là quân đội xâm lược Pháp:
“Ai ngờ vận trời năm Ất Dậu, tiết tháng năm còn dưới tuần trăng.
Ghê thay luồng sóng ở Tây phương, quân đội Pháp kéo lên bắn tóe.
Trận khói lửa đưa người chín suối, mất xác mất thây.
Nào sang hèn rồi kiếp ba sinh, hết hồn hết vía”
Trước thảm cảnh đó, cầu mong cho các hồn chóng siêu thoát, xin tinh linh các đấng phò trì cho Tổ quốc trường tồn. Đó là ý nghĩa mà bài văn tế muốn truyền đạt:
“Nào hồn đông hồn tây, hồn nam hồn bắc, chẳng đâu không gọi hồn về.
Hỡi cô phu, cô phụ, cô tử, cô thần, may hãy còn mình, mình cúng
Cúng cha anh chú bác, thím mợ cô dì ta cả thảy, đau đoàn sau cùng đau đoàn trước, tình nhất sinh nhất tử sơ khác gì thân.
Này hương hoa vàng giấy, xôi rượu muối trà, chút gọi rằng nếm lấy hơi, xin nếm lấy lòng, nghĩa đồng chủng đồng bào, thác xem như sống.Hỡi tinh linh các đấng, phòng trì cho Tổ quốc trường tồn
Này quốc ngữ đôi hàng, ao ước những chí thành năng động. Thương ôi! Xin hưởng"
Buổi tối là lễ đăng đàn chẩn tế do các nhà sư đảm nhiệm. Chủ lễ là một vị hòa thượng, tuổi cao đức trọng, đứng dọc hai bên là sáu vị kinh sư. Ý nghĩa của lễ đăng đàn này là cầu nguyện cho các hương linh được siêu thoát. Sau cuộc lễ là hình thức phóng sinh: chim, lươn, cá v.v…
Trong lễ “đăng đàn chẩn tế”, vị hòa thượng chủ lễ thỉnh thoảng lấy tay vốc từng nắm xôi và đồng tiền kẽm đặt sẵn trong một cái khay lớn vất ra sân. Đám trẻ con chen chúc nhau lượm các đồng tiền trên lấy đây đeo cổ để trừ yêu ma quỷ quái.
Sau kỳ lễ tế, vào ngày 12 tháng 6 âm lịch có tục đi chạp mộ tập thể những người tử nạn trong ngày thất thủ kinh đô (địa điểm gần lăng cụ Kinh Tế, trên đường vào chùa Trà Am, có hai đám mộ tập thể chôn người tử nạn trong biến cố 23/5) tại núi Ngự Bình (những người này được vùi sơ sải, đến khi dọn tử thi trong thành nội, người ta nhận thấy khu vực có nhiều tử thi nhất là vùng sát với miếu âm hồn hiện tại. Có lẽ con đường dẫn đến cửa Chính Đông là con đường dân chúng ào ào chạy loạn, quân Pháp vào thành cũng theo cửa Chính Đông nên sự sát hại thật thảm khốc. Khi đào mộ cải táng, người ta thấy có mũ mang, bài ngà quan lại lân xác ngựa).
Tập tục cúng âm hồn bắt đầu những năm từ sau biến cố, kéo dài cho đến bây giờ, không năm nào gián đoạn, dù hơn trăm năm qua, Huế đã trải qua bao biến cố, chịu bao mất mát đau thương. Tuy nhiên, quy mô và hình thức cúng tế tùy theo từng giai đoạn lịch sử mà có sự chuyển đổi.
Dưới thời đại quân chủ, vào ngày tế lễ, bà Từ Cung cho lính gánh lễ vật ra cúng tại miếu. Giờ hành lễ, quan lại các bộ trong Thành Nội cũng đến hành lễ. Năm nào phẩm vật và tiền bạc cúng phong phú thì ban tổ chức cho hạ bò, lợn để cúng tế.
Sau lễ tế, bài vè "Thất thủ kinh đô" được Lão Mới, một nghệ nhân lão thành, kể vài đoạn gợi nhớ lại cảnh hãi hùng chạy loạn năm 1885 (gồm 80 câu, từ 391 đến câu 470). (Vè “Thất thủ kinh đô” do Lê Văn Hoàng sưu tầm, bản thảo do Lão Mới kể)
Trong những năm cách mạng thành công, tập tục cúng âm hồn vẫn được duy trì. Trong những năm này, kết hợp cúng âm hồn với sự cứu giúp những người nghèo khó đang còn sống, Ban tổ chức quy góp tiền mua vải cắt cho người nghèo, tỏ tình đùm bọc người đồng loại “lá lành đùm lá rách” thật đầy ý nghĩa nhân văn.
Tập tục cúng âm hồn là một mỹ tục thắm đượm tình nhân đạo, nghĩa đồng bào, đồng chủng, nó có đầy đủ ý nghĩa của một lễ hội dân gian mang màu sắc dân tộc đậm nét, tiêu biểu cho một vùng đất văn vật.
Lễ Aza được tổ chức ở Huyện A Lưới, đánh dấu thời điểm kết thúc của một năm làm việc cũ và mở ra một năm làm việc mới. Thời gian tiến hành lễ Aza của mỗi làng có khác nhau vì ngày tổ chức do làng quyết định, tuy nhiên, Aza của tất cả các làng đều được tổ chức trong tháng 10 âm lịch. Nếu ngày đã chọn vẫn chưa tổ chức được thì làng sẽ tổ chức lễ Aza sau đó 18 ngày.
Trước ngày tổ chức Aza, người Pacô lên nương hoặc ra những mảnh ruộng của mình để tuốt những gốc rạ còn lại. Đó là sự tri ân cây lúa bởi lẽ, cây lúa đã mang lại cái bụng no cho dân làng với những chén cơm trắng, những cái bánh aquat dẻo thơm.
Từ tối ngày mồng 5 đến sáng ngày 6, người làng Đụt đã chuẩn bị những lễ vật để cúng Aza. Nào cơm trắng, xôi, bánh aquat, nào gà, heo, vịt, dê. Ngoài ra, lễ vật có một thứ hết sức linh thiêng và không thể thiếu để thực hiện một nghi lễ trong quá trình tổ chức Aza là tânghọt - một loại hoa làm từ tre, và những tấm dzèng. Nhà nào cũng muốn mang những lễ vật quý nhất để cúng thần linh.
Sau khi các gia đình đã chuẩn bị xong, thời gian cả làng bắt đầu tiến hành Aza đã đến, một chức sắc của làng thừa lệnh trưởng làng đánh lên những tiếng kẻng báo hiệu: thời khắc Aza đã đến. Ngày xưa, người ta dùng mõ tre hoặc trống da dê để đánh báo hiệu, khi đó, người làng còn ít và ở quanh nhà trưởng làng. Nhưng nay thì người làng đông hơn và đến ở những chỗ xa hơn, vì vậy, phải dùng kẻng mới báo hiệu được. Sau tiếng kẻng ngân vang, nhà nhà trong làng thắp hương, đốt đèn và bắt đầu cúng thần linh.
Các thần linh được cúng trong lễ Aza bao gồm: Giàng Tro - giống như Thần Nông của người Kinh, đại diện cho cây trồng; Giàng Pơnanh - thần Chăn nuôi, đại diện cho gia súc; Giàng Panuôn - thần Buôn bán; Giàng Sưtarinh - Thần Đất, đại diện đất đai và thời tiết. Bên cạnh đó, mỗi gia đình, dòng họ có giàng riêng của mình cũng được cúng trong dịp này. Khi cúng các giàng, đồng bào Pacô muốn tạ ơn các giàng đã ban phát phúc lành, tạo nên những mùa màng no ấm, đồng thời, mong muốn các giàng giúp đỡ trong năm mới phát đạt cho gia đình, dòng họ, cây cỏ tốt tươi.
Quanh không gian thực hiện lễ Aza, những tấm dzèng được treo tạo thành một gian hành lễ. Tuỳ mỗi gia đình mà cách treo các tấm dzèng khác nhau. Treo xung quanh có, bên trên có. Lễ vật được bày la liệt. Nhà nào có điều kiện thì lễ vật nhiều và quý hơn. Cũng giống như bánh chưng, bánh tét trong Tết Nguyên Đán của đồng bào dưới xuôi, aquat - một loại bánh nếp không nhuỵ của bà con Pacô, là không thể không có và được đặt trên bàn lễ rất trang trọng. Ở từng lễ vật, những cành hoa tre - tânghọt, màu trắng được cắm lên trên.
Trong khi tạ ơn các giàng, tên các giàng được, những lời tri ân năm cũ và cầu mong năm mới được người trong nhà nói to và liên tục 3 lần. Đến khi nào hết tất cả các giàng được cúng thì thôi. Không chỉ cúng các giàng, có nhà còn cúng con ma ngoài đường, ngoài rừng. Với họ, con ma không còn là nỗi sợ hãi như ngày xưa nữa mà nó cũng là một phần của đất trời. Vì vậy, khi cúng Aza thì cũng giành cho những con ma những phần cơm, phần bánh hay con gà, miếng thịt … Những gì dành để cúng con ma sẽ được đổ đi. Có nhà lại sợ linh hồn người thân chưa về kịp với tết cơm mới nên ra trước sân nhà khấn cầu người thân mau về ăn tết cơm mới. Khi đó, họ cũng xướng tên người thân thật nhiều lần để người thân có thể nghe được.
Sau khi tổ chức cúng giàng trong nhà xong, nhà nào cũng lấy một phần lễ vật mang đến nhà sinh hoạt cộng đồng để góp lễ chung vui với mọi người trong làng. Đồng thời tổ chức cúng giàng chung của làng. Đó là những vị thần bảo hộ cho làng và những người thành lập làng. Điều này tương tự đồng bào Kinh tổ chức lễ Thu tế để tưởng nhớ thành hoàng của làng vậy. Trước đây, khi chưa có nhà sinh hoạt cộng đồng, phần lễ vật giành cho làng sẽ được mang đến nhà của trưởng làng để chung vui. Từ khi có nhà sinh hoạt cộng đồng, hoạt động này được tổ chức ở đây. Điều này cũng mang lại sự tiện lợi cho bà con trong làng. Đó là tránh được mưa và có không gian rộng hơn để mọi người tham gia. Nhà nào cũng muốn giành những lễ vật ngon nhất. Tất cả được bày ra giữa nhà sinh hoạt cộng đồng. Nhà thì mang bánh aquat, nhà thì mang xôi và gà, nhà thì mang heo đến. Có một thứ không thể thiếu là hũ rượu cần. Sau khi các gia đình trong làng tề tựu đến nhà sinh hoạt cộng đồng đông đủ, trưởng làng báo hiệu, bà con bắt đầu khấn nguyện sự yên bình, hoà hợp và no ấm cho làng. Sau đó, cũng như ở mỗi nhà, ai cũng cầm hoa tre ném lên trần nhà sinh hoạt cộng đồng và vui cười. Điều này thể hiện Aza đã xong.
Tổ chức cúng giàng chung của làng xong, trưởng làng đánh chiêng báo hiệu sự mừng vui của làng cho mùa mới, năm mới bắt đầu. Trưởng làng đánh chiêng trong sự hoà điệu, hoà nhịp bởi tiếng trống da dê của một thanh niên khác. Điều này thể hiện sự chuyển giao đất trời và sự tiếp nối qua thời gian các truyền thống của làng. Vừa dứt giai điệu chiêng – trống ngân vang ấy, nam thanh nữ tú trong làng bắt đầu đi vòng quanh nơi cúng giàng của làng và múa điệu pơchiêngcoon. Đây là điệu múa đầu tiên trong lễ Aza của đồng bào Pacô.
Sau đó, để tái hiện công việc nương rẫy của mùa đã qua, các cô gái trong làng lại múa điệu tuốt lúa. Mặt khác điệu múa cũng thể hiện mong muốn mùa rẫy mới bội thu.
Lễ tế Xã Tắc được tổ chức vào tháng 2 âm lịch hàng năm nhằm. Lễ tế Xã Tắc diễn ra với 2 phần chính: Lễ xuất cung và Lễ tế, được phục dựng đúng theo quy cách xưa.
Năm 1806, vua Gia Long cho xây dựng đàn Xã Tắc. Xã là vị thần quan trọng nhất trong 5 vị thổ thần, Tắc là lúa - quý nhất trong ngũ cốc. Vì là thờ Đất và Lúa nên đất để xây dựng đàn Xã Tắc được cả các thành, dinh, trấn trong toàn quốc theo lệnh vua, phải đóng góp đất sạch để đắp đàn. Bởi vậy, đàn Xã Tắc còn tượng trưng cho đất đai cả Tổ quốc, ý nghĩa của đàn Xã Tắc vì thế càng thêm thiêng liêng.
Đàn được xây ở bên trong Kinh thành, phía tây của Hoàng thành, xưa thuộc xã Hữu Niên (sau thành phường Ngưng Tích), nay thuộc địa phận phường Thuận Hòa, Thành phố Huế.
Đàn Xã Tắc được đắp lộ thiên, gồm hai tầng, hình vuông, mặt nhìn về hướng bắc. Tầng trên cao 1,60m, cạnh dài 28m, mặt nền tô 5 màu theo nguyên tắc của ngũ hành: giữa màu vàng, phía đông màu xanh, phía tây màu trắng, phía nam màu đỏ, phía bắc màu đen. Trên nền còn đặt 32 bệ đá để cắm tàn. Tầng dưới cao 1,20m, cạnh dài 70m, mặt nền phía trước lát gạch, hai bên có bệ để cắm tàn.
Tại đàn Xã Tắc - nơi diễn ra lễ tế - sẽ có các án thờ, hương án, phẩm vật, lính canh, quan văn tứ phẩm, quan võ lục phẩm, chấp sự, bồi tế... Các lễ chính: Quán tẩy (vua rửa tay); Thượng hương (dâng hương); Nghinh thần (đón các thần); Điện ngọc bạch (tế ngọc và lụa); Hiến tước (dâng rượu); Truyền chúc (đọc chúc văn); Tứ phúc tộ (ban phúc); Triệt soạn (dọn thức ăn)...
Dàn tế Xã Tắc
Theo Kinh Lễ thì đàn Xã Tắc được xây dựng phải có nền "Xã" để tế. Hai tầng nền của đàn Xã Tắc tọa lạc trên một khu đất rộng, vuông vức, xung quanh có tường đá bao bọc. Phía Nam có bình phong, ở ba phía Đông, Tây, Nam có trổ cửa nhỏ, riêng ở phía Bắc (mặt trước) thì dựng cửa tam quan. Trong vườn của đàn trồng nhiều thông và mai, hai bên đường từ nền dưới dẫn ra cổng tam quan trồng hai hàng cây mù u thẳng tắp. Vì vậy mà dân gian Huế có câu: "Văn thánh trồng thông/ Võ thánh trồng bàng/ Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u". Trước cửa tam quan, phía Bắc có con đường ngăn cách đàn với hồ Xã Tắc. Hồ rộng, hình vuông, cạnh 57m, nước trong xanh in bóng đàn Xã Tắc xuống mặt hồ.
Nói đến việc tế Xã Tắc, mỗi triều mỗi khác nhưng đến triều Nguyễn thì lễ tế Xã Tắc được triều đình đứng ra tổ chức. Trước khi tế lễ, các con đường từ Đại Nội đến đàn Xã Tắc phải được quét dọn sạch sẽ. Trước đó, từ nhà vua cho đến văn võ bá quan, người nào tham dự vào lễ tế Xã Tắc cũng đều phải trai giới, chay tịnh để giữ mình được trong sạch.
Để chuẩn bị cho lễ tế, Bộ Lễ phải lo sửa sang, bày biện đầy đủ lễ vật, đồ thờ và hương án. Hôm chính lễ, hai bên đường từ cửa Ngọ Môn có quân lính và cờ quạt đứng uy nghiêm, đèn đuốc chong thâu đêm suốt sáng. Trên hương án ở đàn tế, ngoài các thứ nghi trượng và đồ thờ cúng thường thấy còn có thêm lễ tam sinh gồm ba con vật: trâu, dê, lợn.
Đội quân hơn 700 người với đầy đủ các nghi vệ, quan văn võ, binh lính, đội nghi trượng, đội nhã nhạc, vũ công Bát dật, voi, ngựa, chuông trống, võng lọng, cờ quạt… khởi hành đoàn ngự đạo đến đàn Xã Tắc. Sau đó đoàn Ngự đạo tiến hành cử lễ trong không khí trang nghiêm và linh thiêng.
Trước bàn thờ lớn, nhà vua đội mũ cửu long, mặc áo hoàng bào, lưng đeo đai ngọc, thân đứng ra làm chủ tế. Sau lưng nhà vua, văn võ bá quan áo mão chỉnh tề, hàng ngũ thẳng lối, nét mặt nghiêm trang, kính cẩn cúi đầu hành lễ. Lễ tế diễn ra trong bầu không khí trang nghiêm với nhiều nghi thức thành kính. Ngay sau lễ tế chính thức, khi vua đã hồi cung, dân chúng mới được phép lên đàn dâng hương cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đời sống no ấm.
Lễ hội làng bún Phú Đô được tổ chức vào ngày 22 tháng 1 âm lịch hàng năm, tại Đền thờ Bà Bún, làng Vân Cù, huyện Hương Trà. Lễ hội được tổ chức để cầu một năm mới may mắn, sung túc và bình an cho dân làng và người dân thập phương.
Theo người dân ở đây truyền lại nguồn gốc của lễ hội. Ngày xưa, có một người đàn bà rất đẹp, thuỳ mị và khéo léo. Không rõ họ của bà là gì, chỉ biết bà tên là My, từ Thanh Hoá đi vào tìm đất lập nghiệp. Hành trang của bà chỉ có cái cối xay để giã gạo làm bún. Khi đến làng Vân Cù, vì kiệt sức, nên đành dừng lại và định cư luôn ở đây. Bà lấy nghề bún làm kế sinh nhai và dạy cho người dân trong vùng làm theo. Một ngày kia, vào buổi trưa, trong lúc bà đang làm bún, chẳng may hoả hoạn nổi lên thiêu rụi nhà bà và lan sang những nhà khác. Bà bị bắt tội, trói giữa sân đình cho đến chết. Kể từ đó, cứ mỗi độ huý nhật của bà, trong làng đều có nhà bị cháy. Dân làng cho rằng bà bị chết oan nên hiển linh về báo oán. Những người được bà dạy nghề bèn lập miếu thờ và khấn vái xin giải oan cho bà và cũng cầu cho tai qua nạn khỏi. Kỳ diệu làm sao, kể từ đó, không còn cảnh cháy nhà nữa. Dân làng lại ngày càng ăn nên làm ra và nghề bún phát triển cho đến hôm nay. Bún Vân Cù nổi tiếng không đâu sánh được bởi có mùi vị đặc trưng riêng. Con bún khi ăn không chua mà thơm mùi tinh khiết của bột, không bở mà cũng không dai quá lại có màu trắng tinh. Để tưởng nhớ công lao của bà, hàng năm vào ngày 22 tháng 1 âm lịch người dân Phú Đô lại tổ chức lễ hội.
Lễ hội được chia làm hai phần: phần lễ và phần hội. Phú Đô là làng nghề làm bún truyền thống nên phần lễ là dâng cúng sản phẩm đặc trưng của làng. Những gánh bún trắng tinh được dâng lên trời đất cùng với các sản phẩm nông nghiệp khác: lợn, gà, xôi…
Phần hội diễn ra vui vẻ náo nhiệt với lễ rước kiệu Đức Thánh Cả, Đức Ông và Hai Bà (dân làng thờ Đức tổ nghề làm bún Hồ Nguyên Thơ, hai bà: Bà An và Bà Phương). Lễ rước được tiến hành từ đình làng xuống Quán của làng, Cầu Đôi và sau đó rước các ngài về Đình làng.
Hàng nghìn người dân tham gia rước kiệu, đâu đâu cũng thấy không khí náo nhiệt rộn rã. Lễ rước kết thúc vào 10 giờ trong ngày, vẫn còn đọng lại xúc cảm phấn khởi, hạnh phúc trong lòng người dân. Đây là một nét đẹp văn hoá được gìn giữ và duy trì qua nhiều thế kỷ…
Lễ rước hến được tổ chức vào ngày 24 tháng 6 âm lịch hàng năm, tại phường Vĩ Dạ, thành phố Huế. Đây là một loại lễ hội theo phong tục, có tính chất hương lễ, chỉ có dân làng phường Giang Hến cử hành và tham dự.
Lễ rước hến là một tục lệ của làng Cồn Soi - phường Giang Hến (thuộc xã Phú Xuân cũ) nay thuộc phường Vĩ Dạ, thành phố Huế. Ba năm một lần làm lễ lớn, kéo dài từ 2 đến 3 ngày, ngày chính lễ là ngày 24 tháng 6 âm lịch. Năm thường thì làm tiền lễ (chỉ đi rước) và cây Phan giữa sông sẽ nhỏ hơn, không có điểm hội đồng như đại lễ.
Tương truyền, Niên hiệu Thành Thái thứ 4 (Nhâm Thìn 1892) ở phường Giang Hến có bà Trần Thị Thẹp đi "tròng" (thuyền nhỏ) ra dũi hến ở vùng sông trước đình Hương Cần (huyện Hương Trà), bị hương lý xã kéo ra bắt, đưa "tròng" của bà Thẹp lên bờ đòi chịu nộp thuế phạt, với lý do "Hến về làng, thành hoàng về miếu". Dân phường Giang Hến hay tin, làm đơn kéo nhau đi kiện, được châu phê: "Thượng từ nguyên đầu, hạ chí hải khẩu" (Nghĩa là: Từ đầu nguồn đến cuối sông biển, ao hồ chịu thuế, sông nước được dùng).
Ðược thắng kiện, phường Giang Hến kết long đình trên thuyền, trang trí cờ lọng đi rước, châu phê xã Hương Cần phải thả bà Thẹp, đưa "tròng" của bà Thẹp xuống nước, dân phường Giang Hến rước về tận đình phường làm lễ tạ. Dân phường cho rằng: sở dĩ làng được kiện là nhờ thần sông phù hộ, cho nên dân làng lấy ngày này làm ngày lễ tế hàng năm.
Tiến trình lễ hội bắt đầu bằng việc kết thuyền trang trí long trọng, có án thờ giữa thuyền ở đầu cồn Hến (ngã ba sông Hương). Ở giữa sông cắm cây đại phan, gọi là "Hội đồng thần kỳ" do các bô lão túc trực.
Một đoàn thuyền khác, mỗi thuyền đều trang trí cờ lọng, án thờ kết hoa, có trống, chiêng, phường nhạc bát âm, xuất phát từ "Hội đồng thần kỳ" trung tâm, toả đi hai hướng thượng nguyên và hạ nguyên gọi là cung nghinh thần kỳ sông nước các nơi.
Khi đến mỗi địa điểm, chọn nơi có điều kiện, bày hương hoa, quả phẩm, gạo muối làm lễ nghinh rước, đủ 3 tuần rượu rồi cung nghinh về điểm xuất phát. Sau đó lên bờ trở về nhà thờ họ Nguyễn (nhà thờ chung 12 họ khai canh của xã Phú Xuân) để làm lễ rước thần khai canh cùng về đình hiệp tế.
Tất cả người tham dự hội lễ toàn là nam giới, gồm các vị bô lão, trung niên và lớp thanh niên. Ðám rước thần sông nước gồm một số người mặc áo dài đen, thắt lưng bằng vải đỏ gánh án thờ chính ở điểm hội đồng. Phía trước có một số người mặc áo dài đen, thắt lưng vải đỏ, cầm chèo thuyền phân làm hai hàng, vừa đi vừa làm động tác chèo thuyền và cất giọng hò mái đẩy, có kèn trống, giàn nhạc phụ hoạ gọi là chèo cạn.
Ðoạn cuối là các chức sắc trong phường cùng với dân làng, ăn mặc y phục cổ truyền đi theo đám rước để hầu thần. Trước khi đám rước vào đình còn phải ghé vào nhà thờ họ Nguyễn để làm lễ rước thần về hợp tế. Thần khai canh phường Giang Hến là ông Huỳnh Tương, nguyên người làng Diên Ðại, huyện Phú Vang, tới Cồn Hến lập nghiệp bằng nghề dũi hến. Vua Gia Long lên ngôi, vùng Cồn Hến được đặt tên là phường Giang Hến thuộc xã Phú Xuân.
Lễ tục do vậy mang một ý nghĩa cao đẹp của tập thể, những con người sống trên sông nước ở một vùng sông nổi tiếng ở Thừa Thiên: Cồn Hến, nơi đặc biệt sản xuất loại hến nhỏ và ngon ngọt để làm nên món cơm hến độc đáo, ngon lành của xứ Huế.
Lễ hội đền Huyền Trân công chúa được tổ chức hàng năm vào ngày mồng 9 tháng 1 Âm lịch, tại Trung tâm Văn hóa Huyền Trân, phường An Tây, thành phố Huế. Đây là một hoạt động thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc nhằm tri ân các bậc tiền nhân đã có công với dân, với nước trong việc mở mang bờ cõi.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2 năm 1285, hai vương triều Đại Việt và Champa đã kề vai sát cánh trên trận tuyến chống kẻ thù chung. Sự liên minh khắng khít đã làm cho thượng hoàng Trần Nhân Tông trong chuyến vân du Chiêm Thành năm 1301 đã hứa gả công chúa út của mình cho vị vua ln bang trẻ tuổi có chí lớn. Lúc đó Huyền Trân khoảng 14 tuổi. Năm năm sau, khi Huyền Trân đã trưởng thành, sứ bộ đã đến kinh đô xin định sính lễ. Triều đình Đại Việt phân vân, rốt cục vua Anh Tông đã thực hiện lời hứa của thượng hoàng, và công chúa Huyền Trân đã hy sinh tình riêng, vì dân tộc chấp nhận kết hôn cùng với Chế Mân. Sứ bộ đã dâng sính lễ trọng hậu là đất hai châu Ô, Lý (vùng đất Thuận Hóa - Phú xuân - Thừa Thiên Huế ngày nay) và rước công chúa vu quy về Vijaya. Tháng 7 năm 1306, đoàn hải thuyền vượt biển về Nam. Đến cửa Ô Long, đoàn thuyền ghé nghỉ. Xúc động vì sự xuất giá của em gái, vua Anh Tông đã cho đổi tên cửa biển này là Tư Dung hải môn, để bày tỏ nỗi niềm của mình và nhắc nhở cho đời sau mãi mãi nhớ đến sự hi sinh vì nghĩa lớn của nàng công chúa Việt Nam. Lễ hội đền Huyền Trân được tổ chức chức định kỳ hàng năm vào ngày mùng 9 tháng Giêng - ngày giỗ của Công chúa Huyền Trân, với ý nghĩa tri ân công đức của bà vì sự phát triển của nước Đại Việt.
Mở đầu cho chuỗi hoạt động của lễ hội là Đại lễ cầu nguyện “Quốc thái dân an”, Lễ Hội hoa đăng, Ca múa nhạc Phật Giáo... Tiếp đến là lễ khai mạc với phần nghi lễ chính dâng hương tại Điện Huyền Trân công chúa, đền thờ vua Trần Nhân Tông và vãng cảnh.
Ngoài ra, trong khuôn khổ Lễ hội còn tổ chức triển lãm, trưng bày và giới thiệu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của các làng nghề truyền thống Huế, như: đúc đồng Phường Đúc, chạm khắc Mỹ Xuyên, gốm Phước Tích, hương nhang Tự Đức, nón lá, mây tre đan Bao La, đệm bàng Phò Trạch, thổ cẩm A Lưới, sơn mài Huế và bánh kẹo Huế; các trò chơi dân gian; triển lãm thư pháp…
Bên cạnh đó, là một số hoạt động dân gian như: cờ tướng, cờ người, võ thuật cổ truyền Vạn An, thư pháp, hò giã gạo, nghệ thuật ca múa, vẽ chân dung, vẽ tranh thiếu nhi, thi cắm hoa... cũng được tổ chức trong khuôn khổ của lễ hội.
Trung tâm Văn Hóa Huyền Trân là quần thể kiến trúc gồm ngôi đền thờ Đức vua Trần Nhân Tông và ngôi đền thờ Huyền Trân Công Chúa rất nhiệm mầu tại thôn Ngũ Tây, phường An Tây, nằm cách đàn Nam Giao chừng 6 km về phía Tây nam thành phố Huế. Tọa lạc trên đỉnh núi Ngũ Phong ở độ cao 108 mét là tháp chuông Hoà Bình với một quả chuông được đúc bằng đồng nguyên chất nặng 1,6 tấn, cao 2,16 mét. Giữa bốn bề mây núi giao hoà, tháp chuông Hòa Bình là nơi tịnh tâm của du khách thập phương. Từ đây phóng tầm mắt xuống, du khách sẽ có bức tranh toàn cảnh thiên nhiên như vẽ của thành phố Huế với sông Hương và núi Ngự. Năm mới du xuân cùng gióng một hồi chuông ngân xa, lan toả âm thanh tri giác vào thinh không vũ trụ để cầu nguyện cho thế giới hoà bình và nhân loại được hạnh phúc.
Việc mở hội Đền Huyền Trân tại Thừa Thiên Huế nhằm thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” tưởng nhớ, tôn vinh công chúa Huyền Trân và các bậc tiền nhân của dân tộc đã có công dựng nước, mở mang bờ cõi. Lễ hội thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, bà con tăng ni phật tử, các chức sắc tôn giáo và du khách gần xa về dự.
Lễ hội Làng Chuồn được tổ chức vào các ngày 15, 16 và 17/7 âm lịch, tại xã Phú An, huyện Phú Vang là một lễ hội còn giữ được nhiều nét văn hóa cổ truyền.
Theo văn tế làng Chuồn , ba họ tộc đầu tiên có công khai canh làng, được tôn làm Thành hoàng là họ Hồ, Nguyễn, Ðoàn. Ngài Hồ Quảng Lãnh, được dân làng trọng vọng gọi là Hồ Quý Công, sắc phong Nhật báo Trung Hưng Linh Phò Ðoan Quốc Công tôn thần. Một truyền thuyết khác liên hệ đến Thành hoàng làng: trong một buổi sấm sét, có hai vị thiên thần, giáp trụ sáng loáng, mang gươm giáo từ trời bay xuống, cùng nhau đấu chiến trên nò, sáo, dân làng thấy vậy hoảng sợ nhưng chưa dám ra. Một lúc sau, cả hai đều biến mất. Dân làng lập miếu thờ và tin rằng họ đã được hai vị thần bảo trợ.
Lễ Thu Tế của làng được tổ chức trong 3 ngày: 15, 16 và 17/7 âm lịch. Ngày 17/7 là ngày chính tế. Ngày 15/7 làm lễ trần thiết và cúng rằm, sáng sớm 16/7 làm lễ rước cung nghinh các bài vị Thành Hoàng về Tổ Ðình, sau đó là lễ an vị kế hành túc yết. Ngày 17/7, đúng 2 giờ sáng làm lễ Chánh Tế; 5 giờ sáng làm lễ tiến cung nghinh, cúng bia bạc. Hàng năm các nghi lễ ấy vẫn được dân làng tiến hành một cách trang trọng và nghiêm túc.
Lễ hội Làng Chuồn có những đặc điểm nổi bật so với các lễ Tế ở các nơi khác. Lễ rước cung nghinh ba vị Thành Hoàng thờ ở Miễu giữa đồng (gọi là đồng Miễu) được cử hành rất đẹp mắt và trọng thể. Ðám rước có đủ cờ xí, lỗ bộ, kiệu lọng. Có tất cả 3 kiệu rước, sắp đặt cách xa đều nhau, có âm nhạc véo von nhịp nhàng. Ðặc sắc của đám rước là mỗi năm dân làng lại thay đổi linh vật, hoặc vật thờ cúng được đan bện, trang hoàng kỳ công, khi thì hai chim hạc, khi thì cá hóa rồng, lại có lúc là cả bộ tam sự gồm lư trầm và hai độc bình. Các nghệ nhân tài giỏi trong làng xem công việc trang hoàng cho đám rước là bổn phận thiêng liêng để họ góp công sức, tài năng nghệ thuật, cho nên các linh vật và lễ vật đã được kiến tạo rất công phu và tỉ mỉ.
Gần cuối đám rước, sau đồ lỗ bộ và kiệu là đoàn hát Thài. Thài là điệu hát chỉ dành riêng cho lễ cung nghinh. Ðám hát Thài gồm khoảng 20 người, mặc lễ phục dân tộc. Một vị bô lão xướng một câu thài 4 chữ, đam thài đọc theo, câu này tiếp câu khác, giọng ngân nga, trầm bổng, trang nghiêm. Hát thài trong đám rước cung nghinh ở làng Chuồn là một lễ tục hiếm có còn sót lại trong các đám rước Thành Hoàng ở Thừa Thiên Huế.
Ðám rước đầy màu sắc rực rỡ: màu của lễ phục cổ truyền, cờ xí đủ cỡ, đủ loại, kiệu lọng thắm tươi, các loại áo lính vàng đỏ, phản chiếu trên mặt nước hai bên bờ đê khi trời vừa hừng sáng. Quãng đường đám rước di chuyển từ Ðồng Miễu đến Ðình làng xa hơn 1 cây số, đủ khoảng không gian thênh thang cho đám rước phô bày vẻ rộn ràng đầy màu sắc. Ðám rước đi thật chậm di chuyển từng bước qua các cổng chào của các thôn xóm trong làng. Trước mỗi cổng kết hoa là bàn hương án nghi ngút khói hương trầm.
Ðám rước đến trước Ðình, pháo nổ tưng bừng chào đón. Ðoàn Tư văn cúi rạp người làm lễ. Trong lễ Chánh tế, bộ phận nghi lễ thi hành đúng quy cách cổ truyền do Thượng thư Hồ Ðắc Trung truyền dạy. Nghi thức nghiêm trang của Khổng giáo đã thâm nhập từ cung đình đến dân gian.
Tên làng Chuồn là cách nói tiếng Nôm của làng An Truyền, một ngôi làng cổ có lịch sử hơn 600 năm. Làng cách Huế khoảng 10 km theo hướng đông bắc, gần phá Tam Giang.
Lễ Tịch Điền được tổ chức vào tháng 5 âm lịch, gọi là tháng trọng xuân. Ngày, giờ cử hành được bộ Lễ xem xét cẩn thận, tâu lên vua chuẩn định ngay từ cuối tháng tư. Lễ Tịch Điền là lễ nhà vua đích thân cày ruộng nhằm khuyến khích dân chúng chăm lo việc cày cấy, phát triển nông nghiệp. Vua Minh Mạng từng xuống Dụ coi việc này “thực là chính sự quan trọng của đấng vương giả”. Xem xét nghi thức cử hành đại lễ này dưới triều đại Trần, Lê thuở trước, vua Minh Mạng cho rằng “nghi lễ phàn nhiều giản lược”, do đó vào năm 1828, nhà vua giao cho bộ Lễ soạn thảo chu đáo các điển lễ làm thành luật lệ lâu dài.
Ruộng Tịch Điền dưới thời vua Gia Long được đặt ở hai phường Hòa Thái, Ngưỡng Trị trong Kinh thành, đến năm 1828 nhận thấy nơi đây là chổ đất thấp trũng, vua Minh Mạng ra lệnh chuyển về hai phường An Trạch và Hậu Sinh.
Trước lễ 5 ngày, các nhân viên, kỳ lão nông phu, ca sinh…phải có mặt đầy đủ tại sở ruộng Tịch Điền dưới sự điều khiển của quan viên bộ Lễ.
Trước đó một ngày, quan phủ Thừa Thiên phái thuộc hạ đến Võ Khố nhận roi, cày cùng thóc, thúng và các vật dụng khác, sau đó cung nghinh tới án vàng trước thềm điện Cần Chánh, báo cáo cho bộ Hộ rõ để bộ này tâu “rước vua thân hành duyệt đồ cày”. Duyệt xong, toàn bộ các vật dụng được chuyển đến sở ruộng. Cũng như ngày hôm đó, nhà vua đến cung Khánh Ninh chuẩn bị cho việc làm chủ lễ vào rạng sáng hôm sau. Bộ lễ cùng với phủ Nội Vụ, Võ Khố phối hợp với nhau xắp xếp bàn thờ, đồ thờ, bố trí chổ vua nghỉ bên phia trái đàn Tiên Nông là nơi diễn ra nghi lễ chính. Chúc văn được đưa tới án thờ trong đàn sở, cùng lúc các nhân viên đều phải có mặt để diễn tập nghi tiết. Binh lính và voi hầu dàn chầu ở bên ngoài vòng tường bao quanh. Đêm hôm ấy, toàn bộ tế phẩm được xắp đặt đầy đủ; 8 viên chánh, phó Vệ úy, Vệ Cẩm Y mang gươm, cầm đuốc túc trực ở 4 cửa của đàn sở.
Canh 5, ba hồi trống gióng giả vang động một góc trời. Trâu vàng, trâu đen, kỳ lão nông phu đồng trang phục cùng cày, bừa mỗi loại 6 chiếc có mặt tại vị trí đã định. Ca sinh gồm 14 người cất lên bài ca về lúa, cùng với8 nhạc sinh, 30 người cầm cờ ngũ sắc dàn hàng hai bên sở ruộng Tịch Điền.
Tại cung Khánh Ninh, sau khi nghe tiếng quan viên bộ Lễ tâu “Bên ngoài đã xong”, vua đội mũ cửu long, mặc áo hoàng bào, thắt đai ngọc lên ngồi ở ngai vàng. Thị vệ đưa kiệu đến cửa cung, mời vua lên, rước tới đàn sở. Bảy tiếng trống lệnh nổ vang khi đạo ngự rời khỏi cửa cung. Hai bên đường ngự đạo đi qua, bá quan văn võ và dân chúng đều quỳ lạy đón tiễn. Ngự đạo dừng lại ở phía đông đàn sở, nhà vua vào ngự tọa tại nơi nghỉ dành riêng, tiếp chậu nước rửa tay; xong lên đàn tế, ở phía đông, mặt quay về hướng tây, làm lễ dâng rượu 3 tuần. Lễ xong, đại nhạc và tiểu nhạc cử lên rước vua đến điện Cụ Phục là nơi để nhà vua thay mũ cửu long, áo hoàng bào và nghỉ ngơi một lúc. Tại sở ruộng, mọi việc được bố trí lại lần cuối, thật nghiêm cẩn. 4 kỳ lão nông phu đỡ cày, dắt trâu. 2 viên đường quan bộ Hộ lo dâng tiến cày và gieo giống đứng bên hữu sở ruộng, quay mặt về hướng đông. Phủ doãn phủ Thừa Thiên bưng roi, thúng lúa đứng ở bên tả, quay mặt về phía tây. Khi nghe tiếng “Xin vua làm lễ ruộng”, nhà vua rời khỏi điện Cụ Phục, đến chỗ ruộng cày, mặt hướng về phía nam. Một viên đường quan bộ Hộ dâng cày, Phủ doãn phủ Thừa Thiên dâng roi. Nhà vua tay phải cầm cày, tay trái cầm roi bắt đầu cày ruộng; phụ giúp có 2 kỳ lão nông phu dắt trâu và 2 người đỡ cày. Viên Phủ doãn phủ Thừa Thiên bưng thúng thóc, một viên đường quan bộ Hộ đi bên cạnh để gieo giống. Nhà vua cày ba lượt, giữa tiếng nhạc trầm vang. Xong việc, bộ Lễ tâu rước vua đến đài Quan canh. Tiếp theo là lễ cày của các hoàng tử, thân công, quan viên văn võ và nông phu ở xã Phú Xuân. Các hoàng tử, thân công cày 5 lần, các quan viên văn võ cày 9 lần. Lễ xong thì tới trước đài lạy 5 lạy.
Sau khi nghe nhân viên bộ Lễ quỳ tâu “ Lễ thành” nhà vua rời đài Quan Canh về điện Cụ Phục thay áo, mão rồi lên xe trở về cung Khánh Ninh. Về tới điện, khi nhà vua đã an tọa trên ngai vàng, bắn 5 tiếng trống lệnh. Bá quan bày hàng ở trước sân cung, khi nghe tiếng “Lễ cày ruộng tịch đã thành xin làm lễ mừng” thì đồng quỳ lạy 5 lạy. Sau đó, phủ doãn phủ Thừa Thiên lĩnh vải thưởng cho các kỳ lão nông phu (hạng 1 (8 người) được 4 tấm vải mỗi người; hạng 2 (66 người) được 3 tấm mỗi người). Sau đó, toàn thể được nhà vua ban cho ăn yến một bữa.
Sau lễ, các hạng trâu (vàng và đen) chuyển cho phủ Thừa Thiên tiếp nhận rồi giao cho nông phu xã Phú Xuân chăm nuôi. Còn roi, cày, thúng, thóc thì giao cho Võ Khố cất giữ. Lúa gieo ở ruộng Tịch Điền giao cho nông phu xã Phú Xuân chăm bón, đến mùa lúa chín thì thu hoạch dưới sự quản lý của quan phủ. Phủ Thừa Thiên phối hợp với bộ Hộ lựa chọn số lúa lúa này làm giống gieo cho mùa cày năm sau, nếu còn thừa thì trữ lại đem xay để cúng tế trong lễ tế trời ở đàn Nam Giao và ở các miếu.