Lễ giỗ được tổ chức vào các ngày 19 và 20/8 dương lịch mỗi năm. Đây là ngày lễ giỗ lớn của tập thể bà con tỉnh Tiền Giang, đặc biệt là ở thị xã Gò Công – nơi tọa lạc đền thờ của anh hùng Trương Định.
Bình tây Đại nguyên soái Trương Định là người tỉnh Quảng Ngãi, sinh năm 1820. Dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp của ông là năm 1854, khi ông được triều nhà Nguyễn sắc phong chức Quản cơ, mang trọng trách chống giặc ngoại xâm. Một năm sau, khi nhà Nguyễn quyết định cắt giao 3 tỉnh miền đông cho Pháp, Trương Định đã không thể bó tay chịu mất nước, ông tiếp tục chiến đấu để chống lại giặc Pháp. Nhưng do thế lực không đủ mạnh, vào năm 1864, Trương Định rơi vào tay giặc và ông đã rút gươm để tự sát.
Sau cái chết của ông, gia đình cùng người dân thị xã Gò Công, Tiền Giang đã chôn cất và lập đền thờ người anh hùng dân tộc. Đặc biệt, lòng thành kính của người dân nơi đây đối với ông là rất lớn, không chỉ lập đền thờ và tổ chức lễ giỗ hàng năm mà trong nhà của từng hộ gia đình đều có tục lệ lập bàn thờ Trương Định. Ngoài ra, ngôi mộ và đền thờ anh hùng Trương Định hằng năm đều được người dân sơn sửa, trùng tu. Nơi đây trở thành một trong những điểm tham quan du lịch Tiền Giang được nhiều du khách ghé thăm, khi có dịp về Tiền Giang.
Vào ngày giỗ của ông, nghi thức cúng giỗ được tổ chức tại đền, không quá phô trương rình rang nhưng cũng rất uy nghi và kính cẩn. Người dân trong vùng đến đông đủ để chứng kiến nghi lễ, sau đó thắp hương, dâng hoa tại tượng đài.
Còn một điểm đáng chú ý của lễ giỗ anh hùng dân tộc Trương Định chính là không chỉ có Tiền Giang tổ chức lễ giỗ này, mà ngay tại quê hương ông – tỉnh Quảng Ngãi cũng tổ chức lễ giỗ vào ngày 17 và 18/8 dương lịch hàng năm. Tại quê hương ông, đền thờ Trương Định đã được trùng tu khang trang hơn theo mỗi năm. Tự hào hơn, lễ tưởng niệm anh hùng dân tộc Trương Định đã được đón nhận “Bằng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh”.
Như vậy, dù du khách có ở miền Nam hay miền Trung thậm chí là miền Bắc thì việc tham dự lễ giỗ anh hùng dân tộc Trương Định là không hề khó khăn. Du khách thuận tiện ở Quảng Ngãi hay thuận tiện ở Tiền Giang đều có nơi để đến thắp hương, dâng hoa, tỏ lòng tri ân với người có công đi trước.
Lễ hội Nghinh Ông Vàm Láng - lễ hội lớn nhất của cư dân vùng biển tại Tiền Giang được tổ chức tại xã Vàm Láng, huyện Gò Công Đông, Tiền Giang. Lễ hội diễn ra trong suốt 3 ngày 9,10,11 tháng 3 âm lịch hằng năm nhằm cầu mong cho biển lặng, gió hoà, ngư dân may mắn làm ăn phát đạt an khang.
Mở đầu lễ hội Nghinh Ông Vàm Láng là lễ rước sắc thần vào ngày mồng 9. Ðoàn rước có trên 50 người cùng 2 xe ngựa đến đình Kiểng Phước. Cúng an vị và thỉnh sắc, nhạc lễ làm đúng theo thủ tục từ xưa. Kèn trống nổi lên cho đến khi sắc thần được rước về lăng. Rồi tại lăng, lễ cúng an vị lại được tổ chức trong sự chờ đợi và theo dõi cũa hàng ngàn người. Khoảng 3 giờ chiều, lễ cúng thủy lực, có các phẩm vật dưới biển, trên đất để dâng lên các thần. Nhạc lễ phục vụ cho đến khi hết cúng. Tới 8 giờ tối, trong ánh đèn đủ màu, cờ hoa rực rỡ, lễ cúng vong linh thiên vị trước giàn thí. Trên giàn, hàng chục mâm bánh trái và chất đầy hàng mã. Cúng xong là đến lễ xô giàn thí. Những năm chưa có lệnh cấm đốt pháo, người ta tổ chức đốt pháo ran trời. Năm nào được mùa cá thì đốt pháo bông. Nay không đốt pháo, dứt nhạc lễ là xô giàn thí, hàng mã được đem đốt, trẻ em tranh nhau trèo lên lấy bánh trái, mặt mày hớn hở.
Từ trước đến nay, ở vàm Láng, mỗi lần tổ chức lễ hội Nghinh Ông đều có rước đoàn hát bội về biểu diễn. Năm nào ngư phủ khá giả thì hát bội nhiều đêm, năm thất bại thì diễn chừng 2 đêm. Sau lễ xô giàn thí thì đoàn hát bội diễn trên sân khấu cho đến canh một, canh hai mới kết thúc.
Rạng sáng ngày 10, hơn 70 tàu có đặt hương án và được trang hoàng cờ đèn rực rỡ. Thanh niên trai tráng ăn mặc tươm tất đếu đứng sẵn trên tàu. Tiếng trống từ Lăng Ông Nam Hải đổ hồi báo hiệu cho mọi người biết rõ lễ nghinh Ông sắp được tiến hành.
Ban khánh tiết, các bô lão, đội nhạc lễ cổ truyền và đội lân rước long đình có bài vị thủy tướng lên một chiếc tàu lớn, được trang trí đầy cờ và đèn rực rỡ. Ðội lân múa trên tàu, tiếng trống lân rộn rã vang trên bến, báo cho tất cả tàu thuyền nổ máy, chuẩn bị xuất phát.
7 giờ, chiếc tàu lớn chở đội lân, đội nhạc lễ và ban khánh tiết buông neo ra đi, theo sau là hơn 70 tàu trang hoàng rực rỡ. Cả một vùng biển ầm ầm trong tiếng trống, tiếng kèn, tiếng máy và đặc nghẹt tàu đi, khung cảnh thật hoành tráng. Những năm chưa cấm đốt pháo, phía trước các mũi tàu là hàng dây pháo. Pháo nổ cho đến khi tàu quay về các bến.
Khi đoàn tàu tiến ra biển cả, trên chiếc tàu lớn có đặt mâm heo quay, xôi, bánh trái. Ðội nhạc lễ gồm 10 người, trong đó có 4 cô đào thày và 6 nhạc công (1 trống hầu, 1 trống cái, 1 đờn cò, 1 bạt lớn, 1 đầu đường và 1 kèn) diễn trước long đình. Tàu đi chừng 8km thì làm thủ tục rước Ông (tức Nghinh Ông) và chờ Ông lên “vọi”.
Theo quan niệm của cư dân vùng biển: thì năm nào gặp Ông lên vọi thì năm ấy được mùa. Nếu chưa gặp Ông lên vọi thì chờ một chú cá lớn nào đó lên vọi để hình dung về “Ông”. Và như thế cũng dâng tràn niềm hạnh phú về một năm đánh cá sẽ đại thắng.
Khi tưởng tượng ra Ông vọi, đội lân múa để nghênh đón. Nhang đèn, rượu, trầm hương đều được dâng lên, chủ lễ đứng ra khấn vài thỉnh mời Thủy tướng. Các bô lão cúi lạy. Ðội nhạc lễ biểu diễn một cách cung kính. Tàu đi đủ vòng cho đúng thủ tục, rồi quay về bến.
Ðoàn tàu trở về, cờ hoa rực rỡ. Chiếc tàu có long đình nổi trống, đi vào các bến để chúc sự tốt lành cho các đội tàu.
Bên các bờ rạch, nhà nhà đều đặt bàn hương án ngoài trời, với đầy đủ hương hoa, lễ vật, khói nhang nghi ngút.
Tàu trở về lăng. Trên bờ lại có sẵn một đội lân nghênh đón (trước đây có thêm pháo nổ). Long đình, lư hương, mâm heo quay, bánh trái được long trọng đưa vào lăng làm lễ an vị, trong sự chào đón hoan hỉ của hàng ngàn người.
Tiếp sau phần lễ là phần hội được tổ chức một cách tưng bừng, náo nhiệt. Đoàn hát bội diễn các tuồng xưa. Diễn ngày, diễn đêm tùy theo sức đóng góp của các đội tàu (Ðội tàu được phân theo ngành: ngành sông cầu, ngành đáy chạy, ngành lưới gộc v.v…). Dân làng thả sức xem hát, ăn uống, vui chơi suốt 2 ngày nữa. Trong mấy ngày lễ hội, tại Vàm Láng, diễn ra nhiều trò chơi, nhiểu cuộc thi thể thao như: bónh chuyền, bónh đá, kéo co, bơi lội… làm cho không khí ngày hội thêm vui tươi, huyên náo.
Có thể nói, lễ hội Nghinh Ông là dịp để những người đánh cá thả hết tâm hồn mình vào những trò chơi giải trí, mà quên đi những ngày mệt nhọc, gian nguy, để hướng tới một mùa bội thu sắp đến. Tục thờ cá Ông ở Vàm Láng đã tạo nên một bản sắc riêng trong dòng chảy tín ngưỡng dân gian khá phổ biến của vùng văn hóa Nam Bộ. Những ai đã từng được tham dự những ngày lễ hội đầy ấn tượng này, hẳn sẽ chẳng thể nào quên.
Lễ hội Kỳ Yên (lễ hội Cầu An) được tổ chức trong các ngày từ 14 đến 16 tháng chạp hằng năm tại đình Vĩnh Lợi, thị trấn Vĩnh Bình, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Đây là một trong những lễ hội mang đậm nét văn hóa của vùng đất nông nghiệp, là dịp để người dân vui mừng sau một năm đã qua yên ổn, thuận hòa, cầu phúc cho một năm mới bình an, mùa màng bội thu...
Trong những ngày lễ hội, đường phố thị trấn Vĩnh Bình nhộn nhịp hẳn lên. Nhà nhà đều dọn dẹp tươm tất, chưng mâm ngũ quả trước cửa nhà để đón rước "sắc thần". Từ xế chiều ngày 14 tháng chạp (âm lịch), đội lân rồng của đình đón "Bàn các ấp" của thị trấn - một nghi thức có từ lâu của đình để cung thỉnh những vị đang được thờ tại các miễu và thỉnh vong linh các bậc tiền bối có công với địa phương. Trên bàn là các phẩm vật về nông nghiệp cùng với bàn tay khéo léo của các nghệ nhân làm nên những hình tượng tứ linh trông rất sinh động để cúng tạ thành hoàng. Sau đó là lễ đưa linh vị thần đến miếu Bà, cúng tế rồi lại đưa linh vị thần trở về đình. Ngày 15 tháng chạp diễn ra các lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền, vong linh liệt sĩ, cho đến nửa đêm thì cúng tế thần. Suốt ngày 16 tháng chạp, dân làng đến dâng lễ vật (thịt, xôi, bánh, trái) cùng khách thập phương đến cúng tế và chiêm ngưỡng những ngày lễ hội tưng bừng. Màn đêm dần buông, ánh trăng mười sáu dần ló dạng là lúc đội rồng đi quanh chợ, chúc sự phát đạt, an khang thịnh vượng cho mọi người, mọi nhà. Nửa đêm, lễ tống gió được tiến hành. Những con tàu bằng giấy kiếng, trang trí cầu kỳ, thắp những cây đèn cầy, thả trôi sông cùng các nghi lễ tống gió độc, những điều xui xẻo ra biển, kết thúc 3 ngày đêm náo nhiệt tưng bừng của những ngày lễ hội.
Bên cạnh phần lễ, trong dịp lễ hội Kỳ Yên còn diễn ra các trò chơi dân gian kéo dài trong suốt 3 ngày như: Đẩy cây, nhảy bao bố, bịt mắt đập nồi, bắt vịt trên sông, ngâm thơ, múa lân, ra câu hò, câu đối ... Tại đình, đội múa lân, múa rồng liên tục trổ tài rất vui nhộn. Các đêm có diễn tuồng hát bội. Suốt mấy ngày đêm dân làng lũ lượt đi ra đình làng cúng bái, chiêm ngưỡng.
Lễ giỗ 4 vị anh hùng: Nguyễn Thanh Long, Trần Công Thận, Trương Văn Rộng, Ngô Tấn Ðước, bị giặc Pháp xử chém ngày 14-2-1871, nhằm ngày 25 tháng chạp năm Canh Ngọ. Lễ giỗ được tổ chức tại Lăng Tứ Kiệt (thị trấn Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang). Các năm chẵn, lễ giỗ được tổ chức qui mô, có các ban ngành trong tỉnh tham gia.
Tứ Kiệt” hay “Bốn Ông” là cách gọi tôn kính của nhân dân theo cách sắp xếp thứ tự trong quân thứ đối với 4 vị anh hùng lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp ở vùng Cái Bè, Cai Lậy. Đó là các ông Long, ông Thận, ông Rộng, và ông Đước.
Ông Long tên họ là Nguyễn Thanh Long, hay còn gọi là ông Năm Long sinh năm Canh thìn (1820), tại nơi mà nay gọi là xóm Cầu Ván, ấp Cẩm Hòa, xã Cẩm Sơn, huyện Cai Lậy. Khi Nguyễn Thanh Long ly khai gia đình đi kháng chiến, người chị cả của ông là bà Hai An bị tên Việt gian Trần Bá Lộc bắt giam nhục hình, đòn roi đến thúi cả hậu môn. Em kế là ông Sáu Quang cũng bị chúng bắt tra khảo rất dã man, rồi đày đi Côn Đảo!
Ông Năm Long kết hôn với bà Phạm Thị Lài, sinh được hai gái là Nguyễn Thị Ngọc và Nguyễn Thị Sửu. Trong thời gian bôn ba chiến trận, ông có thêm một bà vợ thứ ở Vĩnh Long, sinh được một trai. Ông thọ 52 tuổi.
Nhân vật số 2 là ông Trần Quang Thận, tự là Phượng, nguyên quán tại xóm Đập, ấp Mỹ Phú, xã Mỹ Trang (nay là Nhị Mỹ, Cai Lậy). Ông có 8 người con là Trần Thị Nhặt, Trần Công Tú, Trần Quang Thanh, Trần Văn Sanh, Trần Quang Nhi, Trần Thị Lang và 2 người nữa không rõ tên. Hậu duệ của ông hiện nay đã đến đời thứ 7, nhưng đều đi tứ tán nên không tìm biết được năm sinh của ông. Tuy nhiên người ta ước đoán rằng, tuổi ông và ông Long tương đương nhau, lúc hy sinh thì người con thứ tư là Trần Quang Thanh đã làm đến chức Quản đạo.
Có thể khi bị bắt, ông dũng cảm khai nhận hết trách nhiệm về phần mình, nên người Pháp đã nhầm lẫn ông là người cầm đầu, gọi là Ngươn soái. Tài liệu của các tác giả Schreiner và P.Vial viết về 4 ông cũng ghi như vậy - Nguon soai Than.
Hai nhân vật cuối, người ta chỉ biết được tên họ là Trương Văn Rộng, người xã Tân Hiệp, Bến Tranh (nay là Tân Hội Đông, huyện Châu Thành), và Ngô Tấn Đước, gốc gác ở Tân Hội, huyện Cai Lậy.
Đặc biệt, Tứ Kiệt đều to lớn khác thường, nước da màu đồng đen. Truyền rằng cả bốn ông đều võ nghệ cao cường, tướng pháp lanh lẹ, râu rậm, tóc dài chấm gót. Các cố lão ở địa phương kể lại, Tứ Kiệt đều có biệt tài chạy rất nhanh và nhảy cũng rất cao. Có lần gặp bất trắc, để thoát thân, một trong bốn ông đã cặp thêm bên nách một cháu nhỏ khoảng 10 tuổi, chạy vun vút như tên, tóc xổ ra phất phới như lá cờ.
Cả bốn ông đều là lính đồn điền, thuộc cấp của Thiên hộ Võ Duy Dương và Phó tướng Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều. Khi lực lượng nghĩa quân của Thiên hộ Dương tan rã, các ông Long, Thận, Rộng, Đước tiếp tục đứng ra lãnh đạo nghĩa quân, chọn vùng Cái Bè, Cai Lậy làm địa bàn hoạt động.
Tuy nghĩa binh của Tứ Kiệt chỉ được trang bị ban đầu toàn vũ khí thô sơ, chủ yếu là giáo mác, gậy gộc, nhưng nhờ biết áp dụng chiến thuật dân gian, biết vận dụng nhiều “mưu thần chước quỷ” để nâng lên thành chiến thuật, kỹ thuật trong chiến đấu theo kiểu “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nghĩa là về mục tiêu, nguyên tắc thì bất di bất dịch, còn hình thức, biện pháp thì căn cứ vào tình hình thực tế để xử lý kịp thời các vấn đề đặt ra một cách linh hoạt, mềm dẻo như:
Lấy ít đánh nhiều, gây thương vong tại chỗ, hoặc nếu không may bị vây, ví thì biết sáng tạo nhiều hình thức “gói quân”, đồng thời thiết đặt chướng ngại theo kiểu “ma ma phần phật”, nhằm gây cản trở, hoặc làm giặc phải nghi sợ, tiêu diệt sinh lực địch, hoặc nhẹ lắm cũng làm tiêu mòn dần sức hung hăng mỗi khi chúng triển khai đội hình, ruồng bố.
Các chiến thuật như làm hầm chông, gài ổ ong ở những nơi chúng hành quân, quen thói lục lạo, hôi của; cưa gần đứt hẳn các chân cầu bắc ngang kinh rạch đã có phục kích hoặc cắm sẵn chông nhọn bên dưới rồi giật sập cầu lúc chúng qua; bày kế cho các gia đình nghĩa binh giả vờ tử tế, tạo điều kiện cho giặc vào ăn, ngủ rồi tùy cơ tiêu diệt, thậm chí nửa đêm tự đốt nhà sau khi đã khóa cột chặt cứng các cửa, không có đường thoát thân, chúng phải bị nướng sống...
Hiển hách nhất là trận quân của Tứ Kiệt tấn công thành Định Tường (ở địa phận hai thôn Điều Hòa và Bình Biên ngày xưa) vang động cả khu vực. Trận này, trước khi đánh, đích thân Tứ Kiệt cải trang người đi làm mướn, len lỏi được vào nội thành, khi đã dò xét cặn kẽ đường đi nước bước và quy luật sinh hoạt của địch, lúc 3 giờ khuya đêm 01-5-1868, lợi dụng trời tối đen như mực, bọn giặc đang say ngủ, bốn ông cho nghĩa binh trèo tường vào thành, giết chết tên trưởng kho, rồi phóng hỏa thiêu rụi kho lương giặc.
Ngày 25-12-1870, lợi dụng lúc phần lớn lính Pháp kéo về Mỹ Tho ăn lễ Noel, chỉ để lại 25 tên lính mã tà, nhưng thay vì cảnh giác canh giữ đồn bót, tên chỉ huy Đội Cơ lại tổ chức nhậu nhẹt, nghĩa quân của Tứ Kiệt bất thần tấn công đồng Cai Lậy, chiếm chợ, bắt tên Việt gian Bếp Hữu, trị tội bằng cách “nướng trui”, đồng thời phóng hỏa thiêu trụi trại lính, tịch thu nhiều vũ khí, đạn dược rồi rút về căn cứ an toàn.
Do liên tiếp bị tấn công và tổn thất nặng ềnn nên thực dân Pháp huy động đến 1.200 quân, gom ở các vùng lân cận như Tân An, Mỹ Tho, Gò Công và Vĩnh Long, quyết triệt hạ bằng được các căn cứ của nghĩa quân.
Chúng ruồng bố khắp nơi. Bởi quân của Tứ Kiệt hầu hết “đêm là lính, ngày là dân”, có mặt khắp nơi nhưng lại không có mặt ở nơi nào cụ thể, cho nên sự càn quét không mang lại kết quả mong muốn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều cuộc đụng độ nảy lửa diễn ra, nhưng cứ trầy trật, bất phân thắng bại. Cuối cùng, tên Việt gian Trần Bá Lộc hiến kế bắt giam và áp dụng những đòn tra khảo hiểm nghiệt đối với thân nhân gia đình bốn ông và 150 thường dân khác. Tuy không ai khai báo hoặc cung cấp điều gì, nhưng bốn ông không nỡ để cho bà con mình cứ bị tra khảo đau đớn đến thúi cả da thịt, nên bốn ông quyết định đánh đổi bằng cách tự nạp mình. Hôm ấy là ngày 1-4-1871.
Tên Lộc nhân danh đại diện chánh phủ Pháp đem vinh hoa phú quý ra dụ dỗ suốt 45 ngày không thành, giặc Pháp đem bốn ông ra chợ Cai Lậy chặt và bêu đầu ngày 14-2-1871, tức ngày 25-12- Canh ngọ.
Thân nhân gia đình chỉ được mang thân mình các ông về quê nhà, gắn chiếc đầu giả làm bằng đất sét vào, chôn cất. Còn 4 thủ cấp của Tứ Kiệt thì 7 ngày sau đó chúng đem vùi dập ở mé rạch sau chợ.
Cảm kích 4 vị anh hùng vì nước quên thân, vì dân diệt bạo, nhân dân địa phương ngấm ngầm chung đậu tiền của lập miếu thờ tại ấp Mỹ Cần, xã Mỹ Trang. Nhưng để che mắt thực dân, đồng bào tôn trí tượng Quan Công ở phía trước (nhân vật tiêu biểu trung nghĩa), còn ở phía sau thì làm một cái khám thờ “Tứ vị thần hồn” và giải thích là “Chùa Ông” (Quan Công) hoặc “Miếu cô hồn”. Nhưng sâu kín tận đáy lòng, không ai không biết đó là miếu thờ Tứ Kiệt.
Trận bão năm Thìn (1904), cũng như toàn bộ nhà cửa, dinh thự trong vùng, “miếu cô hồn” bị sập, nên sau dưòi dựng tại Hòa Sơn (trước là xã Thạnh Hòa), nay là thị trấn Cai Lậy - dời về cạnh mộ, vì sát đó chính quyền Pháp xây cất bệnh viện, nhân dân không ưng thuận (cho rằng gần nơi ô uế). Còn ngôi mộ (chôn 4 chủ cấp) thì từ năm 1871 vẫn đắp nấm đất; đến năm 1935 nhân dân đóng góp tiền bạc làm riêng 4 ngôi mộ bằng xi măng, song song và gần sát kề nhau, xung quanh có hàng rào sắt kiên cố.
Tại cổng “Lăng Tứ Kiệt” có chạm khắc hai câu đối:
Tứ vị anh hùng vị quốc hy sinh vĩnh niệm,
Kiệt nhân nghĩa cử tinh thần bất khuất lưu tồn.
Như đã có nói ở trên, Tứ Kiệt hy sinh ngày 14-2-1871, tức 25 tháng chạp năm Canh ngọ, tính đến nay (2007) đã 136 năm, nhưng tại sao hàng năm nhân dân làm lễ giỗ bốn ông vào các ngày rằm tháng giêng, rằm tháng bảy, rằm tháng tám và 25 tháng chạp?
Xuất phát từ lòng cảm mến, kính phục oai đức, nên ngay từ thời Pháp thuộc, nhân dân đã lập đền thờ Bốn Ông và giải thích là miếu cô hồn để qua mắt chính quyền thực dân, thành ra không thể cúng đúng ngày các ông hy sinh mà phải chọn ngày tốt - tốt nhất là ngày rằm cho được danh chánh ngôn thuận, bởi theo truyền thống tín ngưỡng của nhân dân, vào những ngày này, đồng bào đi cúng bái ở chùa là chuyện bình thường, chính quyền Pháp không dòm ngó. Thượng nguơn là ngày rằm tháng giêng, ngày rằm gần nhất so với ngày các ông hy sinh. Còn Trung nguơn, rằm tháng bảy là nhằm cầu siêu cho Tứ Kiệt, cũng phù hợp với tên miếu cô hồn. Riêng vềlễ cúng tháng 8, là cúng ông Chủ Chợ, tuy tổ chức tại miếu nhưng không dính dáng gì với Tứ Kiệt.
Thành ra từ cả trăm năm, nhân dân buộc phải tổ chức lễ giỗ trật ngày. Sau năm 1975 nhân dân vẫn giữ lệ cúng hai ngày rằm ấy. Cho đến năm 1993, câu lạc bộ hưu trí của địa phương quyết định đứng ra tổ chức lễ giỗ đúng ngày các ông hy sinh là 25 tháng chạp.
Tứ Kiệt và các nghĩa dũng ở Tiền Giang đã góp phần tạo dựng lên tầm cao của một dân tộc anh hùng, và cũng chính các vị đã góp phần điểm tô cho 4 chữ vàng “địa linh nhân kiệt” của Tiền Giang được mãi mãi ngời sáng.
Lễ giỗ Thủ Khoa Nguyễn Hữu Huân được tổ chức hàng năm vào ngày 15/4 âm lịch, tại đền thờ Nguyễn Hữu Huân, thuộc xã Hoà Tịnh huyện Chợ Gạo. Hằng năm đều có các ban ngành trong và ngoài tỉnh, nhân dân trong huyện, học sinh các trường và bà con dòng tộc về dự lễ.
Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân sinh năm Canh Dần (1830) tại làng Tịnh Hà, tổng Thanh Quơn, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay là xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang) trong một gia đình nông dân khá giả trong vùng. Thuở nhỏ, Nguyễn Hữu Huân nổi tiếng thông minh, học giỏi. Năm 1852, dưới triều vua Tự Đức, ông thi Hương tại Gia Định đậu thủ khoa được bổ làm Giáo thụ, tức Đốc học huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, ông bỏ chức Giáo thụ, từ biệt gia đình, liên kết với các sĩ phu yêu nước, chiêu mộ nghĩa binh đứng lên chống giặc.
Đầu năm 1862, giặc Pháp đánh úp. Ông bị bắt và giải về Sài Gòn. Đích thân tên việt gian Đỗ Hữu Phương (tức Tổng đốc Phương) dùng mọi thủ đoạn mua chuộc. Ông từ chối và khôn khéo tìm cách trở lại hoạt động, liên kết với nghĩa quân Trương Định khởi nghĩa. Tháng 6-1863, giặc phát hiện căn cứ hoạt động của ông tại Thuộc Nhiêu – Cai Lậy nên bao vây càn quét. Ông và Thiên Hộ Dương chạy thoát về căn cứ Bảy Núi. Dựa vào điều ước Nhâm Tuất (1862), Pháp gửi tối hậu thư buộc quan tỉnh An Giang nộp Thủ Khoa Huân và Thiên Hộ Dương. Thiên Hộ Dương trốn thoát về căn cứ Đồng Tháp Mười còn Thủ Khoa Huân bị bắt (lần hai), kết án 10 năm khổ sai và đày ông ra đảo RéUNI0N. Sau 7 năm tù, chúng đưa ông về quản thúc tại nhà Đỗ Hữu Phương, cử ông làm Giáo thụ, dạy bảo “sinh đồ” ở Chợ Lớn với hy vọng lôi kéo ông về phía chúng. Nhưng ông đã lợi dụng điều kiện dạy học để liên lạc với các sĩ phu yêu nước chuẩn bị khởi nghĩa. Năm 1875, trong một trận giao tranh với giặc, Đốc binh Hương bị Trần Bá Lộc mua chuộc dẫn quân về bắt Nguyễn Hữu Huân tại Chợ Gạo ngày 15-5-1875 đem giam tại Mỹ Tho (bị bắt lần 3). Ngày 19-5-1875, giặc đem ông về quê Mỹ Tịnh An hành quyết. Năm ấy ông được 45 tuổi.
Sau khi ông mất, để tỏ lòng tôn kính, nhân dân địa phương đã lập đền thờ cách nơi ông bị xử trảm. Tưởng nhớ đến ông, Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang đã cho xây dựng một tượng đài lớn trong công viên cạnh sông Tiền, ngay trung tâm thành phố Mỹ Tho. Và công viên này cũng đã chính thức mang tên ông.