Trên dải đất biên giới Việt - Lào ở Sơn La, ngoài các dân tộc Thái, Kinh, Khơ Mú sinh sống, còn có khoảng ba bốn vạn bà con Xinh Mun định cư lâu đời. Hàng năm, cứ mỗi độ xuân sang, sau dịp tết Nguyên Đán,khi hoa đào đã vãn, hoa ban đã nở trắng sườn non, măng đắng đã mọc ngoài rừng, cũng là dịp bà con Xinh Mun, từng nhà từng nhà tưng bừng tổ chức lễ hội Ksai Sa Típ, nghĩa là Lễ hội Lộc hoa, cầu lộc, cầu mùa, cầu phúc, cho con người mạnh khoẻ, mùa màng tốt tươi.
Lễ hội lần lượt tổ chức từng nhà, mỗi bản có bao nhiêu nhà là có bấy nhiêu ngày hội, lễ hội kéo dài, nhưng không bao giờ diễn ra khi hoa ban đã tàn, măng đắng đã mọc cao, vì khi ấy mùa làm nương (đầu tháng 4 dương lịch) đã bắt đầu, để không ảnh hưởng đến sản xuất.
Tuy lễ hội tổ chức trong từng nhà, nhưng lại là dịp hội tụ dân bản vì ai cũng tự giác tham gia, ai làm trái lệ dễ bị chê cười, ghét bỏ, thậm chí có thể bị loại ra khỏi cộng đồng.
Gọi là lễ hội nhưng không tốn kém vì được tổ chức đơn giản. Mâm lễ hội, ngoài 2 con gà luộc, một "ếp" xôi gạo mới, 1 đĩa trầu cau, ba chum rượu cần, là 2 bát canh nấu từ hoa ban và măng đắng - một món cúng thần linh, tổ tiên có tính bắt buộc.
Một cây nêu cao 4-5m dựng ở giữa nhà, được trang trí bằng những lá xanh, những cành hoa ban trắng ngần buộc gài kín cây nêu, ngoài ra bà con còn gài thêm những bông lúa nếp vàng được giữ nguyên sau khi gặt mùa năm trước, xung quanh cây nêu có ba vò rượu cần, đặc biệt có từ 3 đến 5 "bàn sang" - 1 loại nhạc cụ được "chế tạo" từ các chum, vò con, bên trong được làm bằng mảnh đồng mỏng, hình tròn đục thủng một lỗ ở cạnh mép nắp, để xỏ dây vào khi gõ một tay cầm dây nâng lên, hạ xuống trên miệng chum, tay bên kia cầm 1 que tre gõ nhịp nhàng lên nắp chum, tạo nên một âm hưởng mang đậm bản sắc dân tộc quện vào tiếng trống, tiếng chiêng lúc bổng, lúc trầm, lúc dịu dàng, khi bùng lên sôi nổi thúc giục mọi người vào hội xoè quanh cây nêu.
Lễ hội được bắt đầu khi chủ nhà (chủ lễ) ngồi nghiêm chỉnh bên cạnh mâm lễ khấn: Hỡi người trông coi ở tầng dưới hãy lên để trông coi cho ta hôm nay làm Lễ Ksai Sai Típ, thần linh hãy bảo vệ, hãy ăn hoa thay cơm, uống rượu thay măng, ăn hương thay hương thơm, ăn hương nếp thay cơm, ăn rồi hãy bảo vệ cho cuộc vui lành mạnh, cho hết ốm đau, cho vui trọn vẹn. Người lớn bảo nhau, trẻ em nghe lời người lớn, được vậy thì ước gì cũng có, sống lâu muôn tuổi, hỡi thần linh hãy bảo vệ hãy ngồi mâm đây ăn thịt, ăn hoa, ăn hương thơm, hãy phù hộ cho con cháu khoẻ như con gấu trong rừng, chạy nhanh như con hoẵng ngoài núi.
Rời mâm cỗ cúng ở góc nhà sàn, chủ lễ bước đến cạnh cây nêu giữa nhà, vít cần rượu nói lời mời tổ tiên uống trước bằng những lời trân trọng, thiết tha: "Hỡi tổ tiên, hôm nay ngày lành tháng tốt, ngày sản xuất đã được nhìn thấy kết quả, con cháu làm lễ hội Ksai Sa típ, tổ tiên hãy đến bảo vệ cho con cháu ăn uống vui vẻ, vui chơi thoả mái, nhưng xin hãy đừng để cho ai uống say làm náo loạn bản mường, cãi cọ nhau làm xấu hổ mọi người, năm nay vui, năm mới vui tiếp, như thế mới vui bản yên mường, ai cũng sống lâu muôn tuổi, gìn giữ cuộc sống, chống lại thú rừng, người xấu quấy phá". Chủ lễ tiếp tục mời thần linh uống rượu: "Hỡi thần linh, bảo vệ ta, hãy bảo vệ ta đến cùng, xin mời thần linh uống rượu cùng ta".
Sau khi mời tổ tiên, thần linh uống rượu xong, chủ lễ trân trọng mời ba "già bản" có uy tín trong dòng họ, trong bản mường, sau đó mời đến con cháu, và toàn thể dân bản đến dự lễ hội uống rượu.
Cùng lúc tiệc rượu bắt đầu là tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng nhạc từ nhạc cụ "bàn sang" nổi lên rộn rã, mọi người nắm tay bắt đầu múa xoè xung quanh cây nêu giữa nhà. Khác với xoè Thái êm dịu, nhẹ nhàng, xoè quanh cây nêu lễ hội Lộc hoa rộn ràng, mạnh mẽ, có phần quyết liệt hơn, ồn ã hơn nhiều, xoè múa say sưa, lúc cầm tay nhau, lúc xoè khan, lúc dùng khăn nối vào nhau, tạo thành điệu xoè kéo co (xoè Thái không đâu có). Xoè khoảng 1 giờ, tiếng trống tiếng nhạc trầm dần, họ lại mời nhau uống rượu cần, rồi lại tiếp tục xoè, hết đợt này đến đợt khác, kéo dài đến lúc phương đông hửng sáng mới kết thúc, mọi người hoan hỉ xuồng cầu thang về nhà, để đến tối hôm sau lại đến dự Lễ hội ở nhà người trong họ hoặc cùng mường cho đến khi hoa ban đã tàn, măng đắng mọc cao.
Hoàn toàn khác lễ hội của các dân tộc anh em, lễ hội Ksai sa típ của người Xinh Mun Tây bắc tuy kéo dài nhiều ngày nhưng không ăn uống linh đình, chỉ múa không có hát, vừa giản dị vừa vui, thường được tổ chức từng gia đình, vào buổi tối ấm cúng nên rất vui, thể hiện được bản sắc văn hoá của một dân tộc sống nơi biên giới Việt - Lào xa xôi.
La Ha là dân tộc ít người, định cư nhiều ở Sơn La, Lai Châu..Lễ hội dâng hoa măng (Pang A Nụn Ban) của dân tộc La Ha có từ rất lâu đời, nhằm cảm tạ những người thầy lang chữa khỏi bệnh. Đây cũng là một sinh hoạt văn hóa cộng đồng lớn nhất hàng năm của dân tộc La Ha bởi số lượng người tham gia lên tới hàng trăm người với quy mô không phải một xã, một bản mà có thể tới các xã, sang cả huyện khác. Họ đến đây để gặp nhau, giao lưu văn hóa - văn nghệ, trao đổi về tình hình bệnh tật và kinh nghiệm chữa chạy. Lễ hội được tổ chức vào trước ngày rằm hàng tháng trong mùa xuân.
Mùa xuân là mùa măng đắng khi cây tre lên măng. Ở Tây Bắc thường ít mưa, nên khi măng đội đất lên thì ăn rất đắng. Sau khi gặp mưa đầu mùa thì loại măng này chuyển dần sang ngọt. Măng đắng là món ăn đặc sản của dân tộc La Ha và là loại thuốc gia truyền của thầy lang. Trùng vào mùa măng đắng mọc còn có hoa Mạ Rệ nở trong rừng. Đây là họ cây cổ thụ, to cao, lá to dài, hoa thành từng chùm màu vàng đỏ. Loại hoa này ăn được và có mùi thơm như nước hoa. Đây cũng là vị thuốc trong bài thuốc của thầy lang nên khi tổ chức lễ hội dâng hoa măng cần phải có măng đắng và hoa Mạ Rệ.
Lễ hội gồm hai phần: lễ và hội. Phần lễ cảm tạ đất trời tổ tiên, sông núi đã phù hộ cho dân tộc La Ha mạnh khoẻ, ít ốm đau và mách bảo cho dân tộc La Ha có các loại thuốc lá chữa bệnh.
Phần hội sôi động vui vẻ, khẳng định được tính sáng tạo. Các điệu múa xuất phát từ lao động, những công việc hàng ngày rất gần gũi với dân tộc La Ha, đồng thời khẳng định dân tộc La Ha luôn cầu cho mưa thuận gió hoà, cây cối tốt tươi, bản làng ít bệnh tật, dòng tộc phát triển hạnh phúc.
Lễ hội Dâng hoa măng là di sản văn hoá phi vật thể cần được nghiên cứu, lưu giữ và giới thiệu trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Lễ hội Mơi được tổ chức vào dịp đấu xuân, khi mọi việc đồng áng đã kết thúc (khoảng mồng 5 tết). Ý nghĩa cầu cho mọi người khỏe mạnh, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, bản mường no ấm, đoàn kết vượt qua khó khăn, giúp nhau xây dựng cuộc sống ngày một tốt hơn. Lễ hội Mợi là dịp để người dân được giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm sản xuất, làm giàu chính đáng, nuôi dạy con cái trưởng thành và động viên nhau xây dựng bản mường ngày một tốt hơn. Các con nuôi cám ơn thầy Mợi đã chữa bệnh cứu người mang lại hạnh phúc cho mọi nhà bằng những cây thuốc nam gia truyền.
Lễ hội Mợi gồm: Phần lễ và phần hội được tổ chức đan xen nhau. Phần lễ do thầy Mợi và các con hầu đảm nhiệm. Phần hội có sự hướng dẫn của thầy Mợi và sự tham gia của các con nuôi, bà con dân bản. Lễ hội Mợi diễn ra trong thời gian một ngày. Từ sáng sớm, thầy Mợi và các con hầu đã chuẩn bị các mâm lễ cúng. Vào lễ, thầy Mợi dùng lời hát đang, hát ví truyền thống của người Mường mời tổ tiên Mợi từ trên trời xuống trần gian, sau đó mời tổ tiên bên nội, tổ tiên bên ngoại, thần thổ địa, thần sông, thần núi cùng với tổ mợi về hưởng lễ, hương hoa, phù hộ cho con cháu, bản mường khỏe mạnh, làm ăn phát đạt. Sau khi cúng xong Tổ Mợi, các con nuôi mang các mâm lễ đến để dâng lên tạ ơn thầy Mợi, thầy Mợi tiếp tục làm lễ cầu cho các con nuôi của mình khỏe mạnh, gia đình hạnh phúc, ăn nên làm ra. Cúng mời tổ mợi và cầu phúc cho các con nuôi xong, thầy Mợi và các con hầu chuyển sang múa mợi. Các điệu múa được thể hiện trong lễ hội Mợi bao gồm: Múa xòe, múa khăn, múa trầu, múa kiếm, múa trồng bông dệt vải …Các điệu múa này vừa thể hiện tập quán truyền thống, vừa thể hiện các lễ nghi nông nghiệp. Các con hầu dỗ các ống tre xuống và gõ vào nhau, thổi khèn bè tạo nền nhạc rộn ràng cho các điệu múa. Vừa múa, bà Mợi vừa đi vòng quanh các con nuôi và bà con dân bản, bà dùng khăn quàng vào cổ mọi người để mời bà con dân bản vào cùng múa với thầy mợi và các con hầu. Điệu múa Mợi của người Mường vừa uyển chuyển, nhịp nhàng, vừa mạnh mẽ, say sưa. Càng về trưa thì số lượng người múa càng đông, tiếng nhạc càng rộn ràng. Sau thời gian nghỉ ăn trưa, buổi chiều các điệu múa lại được tiếp tục. Bên cạnh điệu múa là các trò chơi được diễn ra: bói hoa, ném còn, kéo co, đánh chó, đánh chuyền, đánh quay, nhảy lò cò, chơi bi, đánh quay, chơi ô ăn quan, nhảy dây, đánh yến…Các trò chơi dân gian diễn ra hào hứng, vui vẻ, thu hút được mọi lứa tuổi cùng tham dự.
Sau một ngày, lễ hội kết thúc bằng điệu múa trầu tiễn tổ tiên thầy Mợi về trời. Điệu múa phải thể hiện thật dẻo, thật khéo để mong đến ngày nay sang năm còn mời tổ mợi xuống trần gian dạy con cháu tập múa, làm nương, làm ruộng. Sau đó, thầy Mợi tổ chức một bữa cơm đoàn kết mời các con hầu, các con nuôi và bà con dân bản.
Lễ hội Mợi của dân tộc Mường tuy có qui mô nhỏ những mang tính nhân văn và cộng đồng rất lớn. Thông qua lễ hội đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần, văn hóa tâm linh lành mạnh của nhân dân, đồng thời giúp nhân dân bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp, loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu không còn phù hợp. Sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu lễ hội Mợi của dân tộc Mường, huyện Phù Yên nhằm bảo tồn, phát huy và bổ sung vào kho tàng di sản văn hóa Việt Nam.
Dân tộc Thái có mặt từ rất sớm ở Thị xã Sơn La. Người Thái canh tác nông nghiệp chủ yếu dựa vào thiên nhiên, với quan niệm vạn vật hữu linh và tin rằng mọi hoạt động trong đời sống hàng ngày đều do một lực lượng siêu nhiên chi phối đó là các vị thần linh. Một trong các vị thần đó là vị thần mưa. Lề hội cầu mưa của người Thái ở thị xã Sơn La được tổ chức trong phạm vị một bản vào khoảng từ 13 đến 15 tháng 3 âm lịch.
Cách thức tổ chức lễ hội cầu mưa rất đơn giản như sau:
Tối 13 tháng 3 âm lịch, trai gái trong bản tập hợp nhau lại sau đó chọn ra một thanh niên tháo vát, khoẻ mạnh, hiền lành điều khiển. Đạo cụ dùng trong lễ hội là mộ chiếc bung lớn (hoặc sọt) các thanh niên còn lại thì cầm trên tay một chiếc mẹt, một thanh tre (hoặc một thanh gỗ) chiếc sọt được một nam, một nữ khiêng đi trước đám đông đoàn người vừa đi, vừa gõ mẹt. Người Thái sửa dụng mẹt và thanh gỗ trong lễ hội như một biểu tượng của âm dương, tiếng gõ mẹt kêu tượng trưng cho tiếng sấm trời sắp mưa.
Những thành viên trong gia đình thì ở tại nhà chờ đoàn người đi qua nhà mình. Đoàn người đi đến từng nhà trong bản, đến mỗi nhà thì dừng lại ở chân cầu thang và đồng thanh hát gọi mưa, nội dung của bài hát như sau:
" Cầu trời hãy rủ lòng thương dân bản để có nước trồng ngô lúa, cho con người và súc vật có nước ăn, nước uống, cây cối dưới này đang chết khô, trời hãy nổi sấm lên, cho mưa mau xuống... "
Khi bài hát chấm dứt thì bà chủ nhà bước ra sân phơi cầm ống bương đựng nước té xuống đoàn người và hát bài hát thay trời cảm ơn lời cầu xin:
"Trời đã nghe thấu lời cầu xin của các người, trời sẽ đổ mưa xuống để vạ, vật sinh sôi nảy nở, con người, súc vật có nước uống, cây cối được xanh tươi, trời cũng phù hộ cho bản mường lo đủ.... "
Tiếp sau đó chủ nhà vãi lên đầu mọi người dưới chân cầu thang những nắm hạt bông với nghĩa tượng trưng là hạt mưa rơi. Đoàn cầu mưa hứng lấy một cách hào hứng. Chủ nhà cầm vài nắm xôi hoặc hạt bông, tro bếp đi xuống cầu thang bỏ vào bung người cầu mưa. Cứ như vậy, đoàn cầu mưa đi hết các hộ gia đình này đến các hộ gia đình khác.
Sau khi đã đi đến các nhà dân trong bản, đoàn cầu mưa đi đến một con suối của bản để tắm, họ té nước vào nhau và đồng thanh hô to " Phôn, phôn…” (nghĩa là mưa, mưa).
Cảnh này càng ầm ĩ sôi động náo nhiệt bao nhiêu thì họ cho rằng trời sẽ mưa to nhiều bấy nhiêu.
Tiếp theo họ lấy những gói hạt bông, tro bếp trong bung ra thả xuống dòng suối, xôi thì người ta đem về ủ thành rượu nếp, rượu cần.
Sau 3 ngày, 3 đêm diễn ra các lễ nghi như vậy, lễ hội kết thúc trong niềm hân hoan của mọi người dân trong bản. Vào đêm 30 tháng 3 âm lịch, phần hội của lễ cầu mưa mới được tổ chức. Phần ẩm thực của đêm hội là rượu cần được làm từ các nhà trong bản biếu đoàn đi cầu mưa. Ngoài rượu cần, dân trong bản còn đem góp những thứ mà họ kiếm được trong rừng, dưới suối như cá, thú, rau, măng... để tổ chức bữa ăn chung cho cả bản và chia cho những gia đình khó khăn trong bản.
Ngoài phần ẩm thực, người dân còn tổ chức ca hát nhảy múa, đây là dịp tốt để nam, nữ trong bản trổ tài thi hát đối đáp, hát giao duyên.
Lễ hội cầu mưa của người Thái ở Sơn La là nét sinh hoạt văn hoá dân gian có tính cộng đồng lành mạnh rất cần được gìn giữ và phát huy.
Dân tộc Khơ Mú thuộc nhóm dân tộc thiểu số ở tỉnh Sơn La, đồng bào cư trú chủ yếu ở các huyện Yên Châu, Mai Sơn, Thuận Châu, Mường La, Quỳnh Nhai, Sông Mã. Người Khơ Mú xưa rất nghèo, chủ yếu làm nghề nông trồng lúa cạn với nhưng có một đời sống văn hóa hết sức độc đáo. Lễ hội Mah grợ cùng với điệu múa Vêlr guông là một sản phẩm văn hóa tinh thần, tâm linh có nguồn gốc, cổ truyền từ xa xưa. Lễ hội được tổ chức vào tháng 8 tháng 9 âm lịch hàng năm có ý nghĩa tổng kết vụ mùa năm qua và khai mở một vụ mùa năm tới.
Người Khơ Mú bắt tay làm nương, phát cây, dẫy cỏ tháng giêng, tháng hai đến tháng ba, tháng tư âm lịch là đốt nương gieo trồng hạt xuống đất. Họ làm lễ PALR HMAL PHLƯA - Lễ xin lửa với hồn bếp.
Tháng ba, tháng tư thời tiết thất thường, có năm hạn làm cây lúa khó mọc, các cụ già trong bản thường xui trẻ em và bọn con trai, con gái làm trò cầu mưa
Bước sang tháng tám, tháng chín âm lịch, cây lúa đã trổ bông. Bà con chủ nương trong vai "Mẹ lúa" lên nương cắt những bông xanh làm cốm, bông vàng đem về luộc chín, khơi khô mới giã, làm gạo luộc thóc non, cốm và gạo non (thóc luộc) giành để làm lễ MAH QUAI: (Mah làm ăn, Quai là khoai) ý nghĩa là dâng cơm, lúa non cho tổ tiên, ma nhà, nhà nào năm nào cũng phải làm lễ Mah Quai, nhưng trong bản không tổ chức ăn cùng ngày, các gia đình còn tránh ngày kiêng lửa.
Tiếp đó, trong bản những gia đình kinh tế khấm khá sẽ thay nhau làm lễ hội Mah grợ và chỉ có làm lễ mah grợ với múa Velr guông.
Mah grợ là một lễ hội vui của bản. Tên gọi tuy mộc mạc, cổ xưa, ít dân tộc nào còn giữ được, nhưng đúng với bản chất của tộc người sống bằng nghề nương rẫy lâu đời.
Trong nghi thức phần lễ sẽ có mâm cúng tổ tiên là ba con gà. Lúc cắt tiết, cắt mỏ con thứ nhất, tiết ở mỏ gà bôi vào đầu gối của những người trong nhà, nói khấn: "Do bò trèo đèo núi làm nương, đầu gối yếu mềm, nay sửa lại cho mạnh, cho cứng". Cắt tiết con thứ hai, quệt tiết gà vào bồ thóc, rổ khoai, nói khấn: "Thóc năm nay tốt sang năm khoai thóc tốt hơn". Cắt tiết con gà thứ ba đem xuống dưới gầm sàn bôi vào đầu con trâu, con trâu được phủ miếng vải khuýt, vải trắng trên lưng và hai sừng buộc hoa rừng vào cặp sừng. Ông chủ nói khấn: "Trâu ơi, trâu phải khỏe, đẻ nhiều con, tinh phải cứng, hổ phải sợ, sang năm trâu giúp ta làm nên cửa nhà, giàu có...".
Mẹ lúa khoe bông lúa lúa đẹp với các cụ bà và cài lên đầu các cụ bà vài bông hoa rừng. Mẹ lúa nói: "Đã có cơm gạo, các cụ vui khỏe, đẹp như hoa rừng, năm tới các cụ lại đến vui...".
Bữa cơm nội gia của chủ nhà ăn xong, mẹ lúa và những người trong gia đình đem rổ khoai, bí đỏ đã đồ chín nhừ ra giữa nhà để bắt đầu cuộc bôi khoai, bí chín vào áo mọi người. Ai bốc được thứ gì ăn một miếng còn lại bôi vào áo ông bà chủ nhà rồi khách, ai được bôi nhiều người đó sẽ gặp nhiều may mắn.
Sau cuộc bôi bí là cuộc uống rượu cần chum to, lần lượt các cụ ông, đến lượt các cụ bà rồi đến khách quý, uống rượu cần hết lượt mới bước vào cuộc vui nhảy múa.
Trống, chiêng, brinh họa (trống đuổi khỉ) nổi lên. Điệu múa Vêlr Guông bắt đầu, bộ trống chiêng brinh họa đứng tại chỗ, gõ dục tốp múa, rộn ràng. Tốp múa nam nữ đang ở đâu đó lẫn trong đám đông bước ra. Nam đeo chiếc "khoong khăn" vừa là nhạc khí, vừa là đạo cụ múa. Điệu múa nhún mềm mại, duyên dáng rộn ràng, thoảng hoặc diễn viên múa "lượn lưng eo" làm rung lòng người. Các diễn viên càng say xưa, người xem đứng lô nhô, vòng ngoài đắm chìm trong tiết tấu, nhịp điệu múa. Người múa tự khoe mình là chính, mất đi đội hình gò bó, vuông tròn... hòa vào khối quần chúng tạo nên cảnh người múa và người xem là một khi diễn. Đây chính là nét độc đáo của lễ hội Mah grợ và điệu múa Velr Guông của người Khơ Mú.
Dân tộc Kháng là một trong những dân tộc thiểu số cư trú lâu đời ở miền Tây Bắc Việt Nam. Đến nay, đồng bào Kháng vẫn còn duy trì được một số lễ nghi nông nghiệp như lễ Xíp Xí, lễ mừng cơm mới. Tuy nhiên tiêu biểu nhất vẫn là Lễ hội Xen Pang ả, do Pa ả (thầy cúng) tổ chức. Lễ hội Xen Pang Ả được tổ chức với quy mô lớn, gồm nhiều bản, và cứ 2 hay 3 năm được tổ chức một lần vào khoảng từ tháng 10 tới tháng 12. Lễ hội được tổ chức với mục đích mời các "ma nhà", "ma bản", "ma trời" hưởng lễ vật và những người được Pa Ả chữa cho khỏi bệnh (được coi là con nuôi) đến dâng lễ, tạ ơn, đồng thời để Pa Ả cầu chúc cho hồn vía các con nuôi lành mạnh, không hay ốm đau, làm ăn phát tài.
Trong các bản của đồng bào dân tộc Kháng thường có một Pa ả chuyên làm việc cúng lễ cho dân bản. Pa ả là người thông minh, thuộc nhiều bài cúng và biết cách chữa bệnh thông thường, biết một số ảo thuật và biết nhiều điều mà người khác không biết. Có thể gọi họ là những trí thức dân gian, họ rất có uy tín, được dân bản tin và làm theo.
Lễ hội Xen Pang Ả ngoài phần lễ cúng cầu xin, còn là nơi nhân dân diễn lại các công việc nương rẫy, thu hái lâm sản trong đời sống thường nhật, thông qua các trò diễn; chơi các trò chơi dân gian; hát đối đáp giao duyên; múa ống, múa khăn.
Xen Pang Ả là ngày hội lớn, vô cùng có ý nghĩa đối với đồng bào dân tộc Kháng. Đây là dịp để mọi người tạ ơn tổ tiên và các thế lực siêu nhiên đã giúp đỡ cho họ có sức khỏe, bản mường yên bình, no ấm. Đây cũng là dịp để cộng đồng người Kháng vui chơi thư giãn, sau những tháng ngày lao động vất vả, một nắng hai sương. Đặc biệt lễ hội còn là dịp để lớp thanh niên chưa vợ chưa chồng tìm hiểu, hẹn hò nên vợ thành chồng, bởi vậy lễ hội Xen Pang Ả còn có ý nghĩa trong việc tái tạo cộng đồng dân tộc.
Ở Sơn La, đồng bào Xinh Mun thường cư trú ở vùng rẻo giữa và rẻo cao, kinh tế chủ yếu dựa vào việc canh tác nương rẫy, chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm. Cũng như nhiều dân tộc khác, đồng bào Xinh Mun theo quan niệm vạn vật hữu linh, họ tin rằng, các cánh rừng, con suối… đều có thần linh cai quản. Do vậy, họ có nhiều nghi lễ nông nghiệp, trong đó nổi bật là lễ hội Mương A Ma (lễ hội cầu mùa). Lễ hội Mương A Ma thường từ 3- 5 năm tổ chức một lần, diễn ra trong 2 ngày vào khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng 2 âm lịch, khi mùa màng đã thu hoạch xong và năm đó được mùa, lúa ngô đầy nhà và nuôi được nhiều gà, lợn...
Người đứng ra tổ chức, chủ trì lễ hội là những người làm thầy mo trong bản. Lễ hội Mương A Ma được tổ chức trong phạm vi gia đình, nhưng lực lượng tham gia làm công việc chuẩn bị lễ vật, cỗ bàn và đặc biệt là lực lượng tham gia phần hội thì bao gồm cả bản, từ các ông, bà già, thanh niên nam nữ và cả trẻ nhỏ, mọi người đều tham dự lễ hội với tinh thần tự giác, hăng say và nhiệt tình.
Lễ hội Mương A Ma có phần lễ và phần hội rõ ràng. Phần lễ trang nghiêm, thành kính, thầy mo thay mặt dân bản cúng tế các vị thần linh phù hộ cho mưa thuận gió hòa, để lúa sai bông, để ngô mẩy hạt, để lợn gà trâu bò không bị dịch bệnh, sinh sôi đầy chuồng, để con người khỏe mạnh không bị ốm đau, để bản mường mãi mãi hưng thịnh. Khác với không khí trang nghiêm của phần lễ, ở phần hội, trong tiếng trống, tiếng chiêng rộn ràng, trong sự nồng say của men rượu cần, tinh thần của người dân được thăng hoa, mọi lo toan thường nhật phút chốc tan biến, mọi người thả mình theo những điệu múa, trò chơi dân gian rất vui vẻ, diễn tả hiện thực cuộc sống của cộng đồng dân tộc Xinh Mun, mang tính nghệ thuật và giáo dục cao như múa Tăng bu, To luồng, múa kéo thuyền… chơi "to miếng" (đấu võ), chơi "giắc klsù" (bắt tổ ong) v.v.
Lễ hội Mương A Ma là một nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc nhất của đồng bào dân tộc Xinh Mun, là một hình thức sinh hoạt văn hóa tập thể lành mạnh, góp phần tích cực vào việc vun đắp tình đoàn kết cộng đồng, giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, tạo ra bầu không khí vui tươi phấn khởi, hướng người dân theo những cái thiện, xa rời cái xấu.
Ngày Tết là dịp người Mông thể hiện sâu đậm nhất truyền thống đoàn kết, bản sắc văn hóa, đời sống tâm linh. Trong số các dân tộc anh em thì người Mông ở Mộc Châu (Sơn La), là dân tộc đón Tết độc lập to hơn cả. Trong ngày Tết thường diễn ra hàng loạt các hoạt động vui chơi, giải trí. Đây được xem là cái tết to thứ hai sau tết truyền thống của người Mông.
Tết này thường diễn ra suốt tháng chạp hàng năm, những ngày này bản làng người mông trở nên náo nhiệt khác thường bởi sự góp mặt của hàng trăm trẻ em, thanh thiếu niên quần áo mới toanh, ô xòe khoác vai nhau dạo chơi, chạy nhảy nô đùa.
Dọc đường đi, du khách không khỏi xao xuyến khi bắt gặp những tốp bà mẹ đưa con đi chơi hội, những cặp đôi phóng xe máy vun vút trên đường. Đám trẻ con hồn nhiên nhí nhảnh, cánh phụ nữ tụm năm tụm ba xòe ô che nắng ngồi chuyện trò trên những đống đá ven đường... Tất cả khăn áo xúng xính, rực lên sắc tím hồng chủ đạo.
Và lẫn giữa những váy áo rực rỡ đất trời của người Mông, thật dễ dàng bắt gặp một vài gương mặt khách du lịch dưới xuôi, kẻ ngỡ ngàng, phấn khởi, người tất bật hai tay hai chiếc máy ảnh chụp hình một cách mê say. “Dân đi” gặp nhau, chia sẻ niềm vui qua nụ cười, vài câu thăm hỏi rồi mỗi người mỗi cung đường, nhưng ấn tượng về một Tết độc lập ở Mộc Châu trong họ nhất định sẽ có chung một mẫu số: rực rỡ và hồn nhiên.
Trên kia, từ trên núi cao, những ngọn gió Hua Tát như thể đang hát, nguyện cầu cho cuộc sống của người Mông ngày một ấm êm, no đủ hơn...
Tết của cộng đồng người Mông ở Mộc Châu đã phô diễn một cuộc sống văn hóa hết sức phong phú, làm giàu thêm sự đa dạng về bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam. Các sinh hoạt trong ngày Tết của người Mông mở ra hướng khai thác du lịch văn hóa hấp dẫn cho vùng đất Mộc Châu.
Lễ hội “Xên Mường” hay còn gọi Lễ hội Hoa Ban tại “Đông xên” bản Mé, xã Chiềng Cơi, thành phố Sơn La được tổ chức vào ngày 31/12.
Trước đây cứ 2 năm tổ chức 1 lần vào dịp năm hết, Tết đến, thu hoạch xong mùa màng, với quan niệm của đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc là cầu cho vạn vật bảo vệ con người, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, bản mường đoàn kết vượt khó khăn, giúp nhau xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Địa điểm chọn lễ cúng mường thường là tại một cánh rừng già được gọi là “Đông Xên”. Lễ vật gồm mổ trâu, lợn, gà, sản vật, thóc gạo, hoa quả...
Lễ hội gồm các nghi lễ: Lễ rước Nàng Tánh về dự hội, bà Một cúng cầu may, lễ đi qua cầu Mường; lễ té nước cầu phúc. Phần lễ trong Xên Mường (cúng bản mường) gồm ông mo, bà “một” (người khấn vái chính) gọi “mời” các vị thần linh như thần sông, thần núi, thần thổ địa, thần cai quản ruộng nương, vùng miền, các linh hồn người có công dựng bản mường, đất nước và những linh hồn của những người trong bản mường đã mất về dự, “ăn”, nhận các lễ vật do bản mường, con cháu dâng lễ.
Phần hội được diễn ra ngay sau phần cúng lễ kết thúc, gồm các trò chơi dân gian như: ném còn, kéo co, bắn nỏ, tó má lẹ (một trò chơi dân gian), trò chơi đánh chân đánh đầu, múa xoè bên đống lửa, tổ chức dân ca dân vũ, thăm hỏi, chúc tụng nhau. Tổ chức giao lưu văn hóa - văn nghệ, thi đấu các trò chơi dân gian giữa các xã, phường, thưởng thức ẩm thực các món ăn dân tộc.
Lễ hội đã thực sự cuốn hút được đông đảo quần chúng bởi nhiều tiết mục ca-múa-nhạc đặc sắc mang đậm nét văn hóa truyền thống được các đội văn nghệ không chuyên đem đến giao lưu biểu diễn. Kết thúc đêm hội, mọi người được hòa chung vòng xòe đoàn kết, uống rượu cần trong tiếng trống, tiếng chiêng rộn ràng.
Lễ hội cầu an thường được tổ chức vào cuối tháng giêng, đầu tháng 2 âm lịch hàng năm (dịp tết Nguyên Đán), tại Thuận Châu, Mộc Châu gắn với tục giết trâu hiến sinh cầu và tạ thần linh.
Lễ hội cầu an cho bản mường (xên bản, xên mường) của người Thái, đặc biệt là người Thái Mai Châu, Thuận Châu, Mộc Châu, người Mường... là một sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng rất quan trọng đối với cộng đồng người ở Tây Bắc. Lễ hội có liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh của cả bản mường, đến mùa màng, sức khỏe và sự làm ăn của cộng đồng năm ấy, nên được tổ chức rất trọng thể, vui vẻ, thu hút sự tham gia của đồng bào ở địa vực lớn (bản, mường).
Lễ hội nhận được sự tham gia đóng góp của các bản, mường là bởi, trước hết nó gắn với nghi lễ hiến sinh thờ thần nước, nguồn nước - vị thần gắn bó chặt chẽ với đời sống tâm linh của cộng đồng. Thứ nữa, theo quan niệm lâu đời của người dân bản mường, nếu không tổ chức lễ cúng trong toàn bản, toàn mường, không hiến lễ vật (trâu, cặp trâu) cho tổ tiên và các vị thần linh thì cuộc sống vật chất và tâm linh của con người trong cộng đồng sẽ gặp những trắc trở, không thuận lợi, thần linh không phù hộ cho được nhân khang, vật thịnh, cộng đồng bình an. Chính vì thế mà để được bình yên, cộng đồng người Thái, Mường... nơi Tây Bắc xa xôi này sử dụng một thế ứng xử rất quen thuộc của các cư dân Việt và cư dân các tộc ít người trên đất Việt, là hiến tế lễ vật (trâu, bò, heo, gà...) cho thần linh, mà ở đây là thủy thần, thần nước, thần nguồn nước... dưới dạng con thuồng luồng, con giải, con giao long...
Thường thì người ta tổ chức lễ cầu an cho mường trước, sau đó lần lượt làm lễ hội cầu an cho bản hoặc liên bản. Chính vì thế, ngày nay, qui mô lễ hội (to hay nhỏ, kéo dài hay thu gọn... ) một phần lớn tùy thuộc vào thời tiết liên quan đến sự được mất của mùa màng năm tới, nhưng còn phụ thuộc vào sự được mất, nhiều ít của mùa màng vừa rồi, sau khi thu hoạch.
Lễ hội này được tiến hành ở đầu nguồn nước thuộc một bản được chọn (thường là bản Mòn). Đây là nguồn nước thiêng, gần rừng thiêng, nơi cư trú của thần thuồng luồng đầy uy lực. Ở người Thái Mai Châu, thì lễ hội lại được tổ chức ở bãi rộng gần đình như các lễ hội ở châu thổ, đồng bằng. Có nơi, người ta tổ chức lễ ở các miếu thờ thổ công, thổ địa của bản, của gia đình, ở vườn và ở đầu ruộng.
Thường thì ngay từ dịp tết Nguyên Đán, mọi thứ dùng cho lễ hội đã chuẩn bị xong. Lễ hội thường kéo dài trong ba ngày (có nơi hai ngày một đêm, có nơi một ngày một đêm). Nghi lễ cúng viếng cơ bản là hiến sinh trâu (nơi là một cặp trâu đực to, trắng - đen, nơi thì một con, nhiều nơi cúng cả gà, lợn). Ở Mộc Châu, trong lễ xên bản, xên mường, người ta hiến tế cặp trâu đen - trắng cỡ từ mười tuổi trở lên. Hai trâu, nhưng trâu trắng mới thực sự mang năng lượng thiêng để thành lễ vật tế thần (ở đây là thủy quái thuồng luồng, con ma to nhất dưới nước mà bà con thường gọi là phi ngược). Có lẽ nghi thức thờ, hiến sinh hai trâu là mới hơn nghi thức hiến sinh một trâu mộng rất phổ biến. Bởi theo bà con cho biết, trước kia, dân một mường khác phải đem trâu trắng và các đồ cúng lên cúng tại bản Mòn này. Từ đó nảy sinh lễ cúng liên mường (xên liên mường) mà đồ cúng và trâu hiến sinh tăng thêm về số lượng. Suy tưởng này, thực ra mới chỉ là giả thiết.
Người chịu trách nhiệm chính trong tổ chức lễ hội cầu an bản mường là a nha, nhưng người trực tiếp điều hành buổi lễ lại chính là ông thầy cúng (mo mường). Dân chúng trong mường, ngoài bản, bất kể già trẻ gái trai đều có nghĩa vụ tham gia, đóng góp tùy sức mình và được quyền tham dự lễ hội của mường.
Nghi lễ giết trâu ở đây hết sức đơn giản, không quan trọng và hệ thống như nghi lễ đâm trâu, ăn trâu ở Tây Nguyên. Trước ngày hội chính thức, tức là khoảng 2-3 giờ chiều ngày hôm trước, người ta đã làm lễ giết trâu. Trước khi thịt trâu, ông mo mường và ông mò phăn (tức ông thầy chém, được dân mường chọn ra) làm lễ vái thần linh, tổ tiên rồi cầm dao nhọn làm động tác chém dữ (mang tính nghi lễ) vào cổ các con trâu dùng tế lễ, miệng thì thầm những câu như thần chú (thực ra, nhiều người cho rằng các ông chỉ nói lời kính báo với thần linh, tổ tiên: trâu tế thần đã sẵn, dân bản, dân mường đã thịt trâu dâng các vị rồi đây nhé, xin các vị về mà nhận lấy). Sau đó, các ông lui ra, dành chỗ cho các thanh niên khỏe mạnh vào chém trâu, thịt trâu... Bắt đầu ngày hội, người ta làm nhiều mâm cỗ cúng (mỗi mâm cỗ tượng trưng cho một bản lớn, xưa, có tạo bản đứng đầu, các bản nhỏ không được tượng trưng bằng mâm cỗ) đặt cạnh nguồn nước thiêng của mường. Đặc biệt, mâm cỗ của ông a nha, đặt ở giữa, dùng cúng tổ tiên (mâm cúng chính thức) phải đầy đủ các bộ phận của con trâu hiến tế (đầu, đùi, thân, móng, đuôị..) cùng tất cả các bộ phận của một con lợn. Những mâm còn lại của các bản, ngoài thịt trâu, cơm rượu... còn phải có gà vịt, đặt ở hai bên mâm cúng chính, dành để cúng các vị thần khác. Khi buổi lễ bắt đầu, mo mường quì trước các mâm cỗ, phía sau là a nha, tạo bản, dân mường quì lễ. Trong không khí trang nghiêm, linh thiêng, ông mo trang trọng, xuất thần đọc bài cúng đã thông thuộc, mời tổ tiên (ông cha bà cố nội ngoại tiếng Thái là Pao pu pang cải), thần đất (Chau đỉn), chủ nguồn nước (Chau nặm bo), thổ công thổ địa... về nhận lễ vật, dùng cỗ, vui vẻ với cộng đồng dân cư bản mường; đồng thời cầu mong tổ tiên thần linh ban phúc, phù trợ cho bản mường bình yên, làm ăn suôn sẻ, con người khỏe mạnh, ngô lúa sinh sôi, gia súc gia cầm đàn đàn, lớp lớp. Khấn xong, mo mường và các vị chức sắc cùng dân bản mường vái lạy tổ tiên và các vị thần. Trong lúc đó, mo mường ném hai quả trứng (một đỏ, một trắng) và một nắm cơm nhỏ xuống nguồn nước. Cuộc lễ kết thúc, mọi người bắt đầu vào cuộc ăn uống cộng cảm, vui chơi thể thao, văn nghệ... Cuộc ăn uống cộng cảm diễn ra hết sức vui nhưng đúng lễ nghi. Các ông mo mường, a nha, tạo bản... ăn làm phép ở mâm cỗ chính, rồi đi từng mâm; ở mỗi mâm các ông ăn một miếng thịt, uống một hớp rượu. Kế đó, cả bản mường ăn uống vui vẻ cho bằng hết các mâm, không được bỏ thừa hay đem về.
Để chuẩn bị cho việc diễn ra những trò bách hý trong hội lễ, ngay từ sáng tinh mơ của ngày đầu tiên, bên cạnh vị trí cúng lễ (mặt bằng, có thể là bàn đá cạnh nguồn nước), người dân bản đã sửa sang, dọn dẹp một mặt bằng rộng, cách nơi hành lễ khoảng trên dưới 100m. Mọi hoạt động hội hè, trò chơi, văn nghệ, thể thao... đều được diễn ra nơi đây. Trời về chiều, trong tiếng trống, tiếng chiêng dìu dặt lúc khoan lúc nhặt, dân làng tổ chức xòe vòng, xòe đôi, xòe đơn thật hào hứng. Bên mâm rượu tập thể, những nam thanh nữ tú hát giỏi múa hay, biết nhiều, nhanh nhẹn trong ứng đối vừa ăn uống, chọc ghẹo, vừa hát đối đáp giao duyên. Họ hát giới thiệu, khen ngợi nhau, bày tỏ chí hướng, tỏ lòng với nhau... trong men rượu, men tình... Bên cạnh đó, dăm bảy đôi nam nữ (thường là những đôi đã ngầm kết nhau, tổ chức múa sạp, thi bắn nỏ, bắn súng hỏa mai. Nhiều nơi còn có tục đi săn tập thể vào ngày kết thúc lễ hội. Dưới sự chỉ huy của một thợ săn giỏi nhất mường, được dân bản bầu lên, mọi người lao mình vào cuộc săn một cách hào hứng. Thú rừng săn được sẽ chia đều cho mọi người cũng như lũ chó tham gia cuộc săn... Cứ như thế cuộc vui kéo dài trong hai, ba ngày. Sau đó, bản nào về bản ấy. Bản nào giàu có, nhiều khả năng vật chất thì mời mo mường, a nha về bản mình, tiếp tục mổ lợn, giết gà tiệc tùng vui vẻ, hoặc tổ chức cầu an cho bản (xên bản).
Như vậy các nghi lễ chính trong lễ hội cầu an bản mường vừa bộc lộ tín ngưỡng thờ phụng thủy thần (thần nước, thần nguồn nước, sấm báo mưa) vừa thể hiện tín ngưỡng gắn với thời săn bắn, hái lượm nguyên thủy. Tuy nhiên, bằng vào tục hiến sinh trâu, có thể thấy nghi lễ chính là cầu thần nước, cầu tổ tiên cho làng bản bình an, làm ăn phát đạt, người vật phát triển. Tục đi săn, nhiều khi, là hệ quả kéo theo, ngày càng mang tính hội hè nhiều hơn. Vết tích nghi lễ tín ngưỡng qua tục săn bắn tỏ ra rất mờ nhạt. Dù sao, đó cũng là sự kéo theo hay xếp lớp văn hóa, thường gặp trong văn hóa dân gian.
Như vậy, ngoài sự khác biệt đôi chút ở nghi lễ hiến tế, hầu như các hoạt động của lễ hội cầu an bản mường đều giống nhau ở chỗ đây là dịp để mọi người tụ họp, gặp gỡ với tổ tiên, thần linh, gặp gỡ với nhau trong cả sinh hoạt vật chất lẫn hành động tâm linh; vừa bộc lộ niềm thành kính, ngưỡng vọng thánh thần, vừa thể hiện sức mạnh của con người; vừa cầu phúc cho một cuộc sống hạnh phúc, an bình, vừa bộc lộ khả năng vui chơi, thi tài... Có thể nói, lễ hội cầu an bản mường là một hoạt động văn hóa tín ngưỡng đặc sắc của các tộc Thái, Mường... một sinh hoạt văn hóa dân gian tổng thể; một nguồn vui không thể thiếu của cư dân ít người nơi rẻo cao Tây Bắc xa xôi, mỗi khi mùa hoa ban trắng nở.