Hàng năm, Lễ hội Yên Tử được tổ chức từ ngày mùng 10 tháng Giêng âm lịch và kéo dài trong 3 tháng mùa xuân tại khu di tích Danh thắng Yên Tử thuộc xã Thượng Yên Công, Thị xã Uông Bí, Quảng Ninh. Yên Tử là trung tâm Phật giáo của nước Đại Việt thuở trước, nơi phát tích của Thiền Viện Trúc Lâm. Du khách đến lễ hội chùa Yên Tử để tách mình khỏi thế giới trần tục, thực hiện cuộc hành hương tôn giáo giữa thiên nhiên hùng vĩ.
Sau phần nghi lễ long trọng được chính quyền địa phương tổ chức dưới chân núi Yên Tử là cuộc hành hương của hàng vạn người đến với đỉnh cao nhất của Yên Tử-chùa Ðông. Ðường lên đỉnh Yên Tử uốn lượn, gập ghềnh, luồn dưới những bóng cây đại thụ, xuyên qua những vạt rừng thông, trúc...
Với thời gian trung bình 3 giờ leo núi vất vả mới có thể đến được chùa Ðông, đường lên đỉnh Yên Tử là một cuộc thử thách đức tinh, kiểm chứng lòng thành với Phật. Ðến được chùa Ðồng, những tín đồ của Phật có cảm giác mãn nguyện như đến được cội nguồn cõi Phật. Dường như nơi đây là chốn đào viên để Tiên, Phật đánh cờ, luận đàm kinh kệ, truyền cho các bậc hiền triết của trần gian.
Rải đều trên các cung bậc của hành trình Hội xuân Yên Tử là những cụm kiến trúc chùa, bia, am, tháp...Lúc náu mình trong rừng cổ nguyên sinh, khi phô bày giữa không gian thoáng đãng, nhiều lúc ẩn hiện trong mây, huyền ảo như trong chuyện cổ tích, vừa quyến rũ du khách, vừa khích lệ tinh thần chinh phục. Ðến đỉnh Yên Tử du khách có cảm giác như lên tới cổng trời cưỡi mây nhìn xuống hạ giới. Phóng tầm mắt ra phía đông là Vịnh Hạ Long mênh mông với hàng ngàn đảo đá nhấp nhô như chuỗi ngọc. Nhìn về phía nam là TP. Hải Phòng với dòng sông Ðá Bạch, Bạch Ðằng lững lờ như một dải sa tanh lấp lánh. Trông về Tây là đồng bằng trù phú Hải Dương, Bắc Ninh, còn phía Băc điệp trùng rừng núi...Tất cả gợi lên niềm phấn khích tự hào, lâng lâng trong niềm vui chiến thắng và chinh phục.
Vào dịp lễ hội, trong dòng người thập phương đổ về Yên Tử, có nhiều người hành hương tìm đến cõi Phật để thể hiện đức tin, cầu lộc, cầu tài. Có những người đến Yên Tử để ngưỡng cảm ý chí thông tuệ và đức độ thanh cao của các bậc cha ông. Có người về Yên Tử để du xuân, vãn cảnh, thưởng ngoạn không khí thanh bình. Nam nữ thanh niên đi Yên Tử để khám phá, chinh phục. Nhiều Việt kiều về nước tìm dến Yên Tử đắm mình trong những giá trị nhân văn, tinh hoa dân tộc. Rất nhiều khách nước ngoài đã biết đến Yên Tử như một điểm hấp dẫn du lịch tôn giáo, lịch sự, văn hóa và sinh thái.
Bất kỳ ai đến với lễ hội Yên Tử, nhất là đến được chùa Ðồng đều cảm thấy choáng ngợp bởi sự kỳ vĩ của thiên nhiên. Những giá trị tinh thần, văn hoá của tổ tiên; sự dâng hiến tinh khiết, trong hoa lá...Ðâu phải vô tình mà Yên Tử làm nơi hành đạo.
Lễ hội Quan Lạn (còn gọi là hội đua bơi Quan Lạn) là hội làng của người dân xã đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Lễ hội được tổ chức trong vòng 10 ngày từ 10 – 20/6 (chính hội ngày 18/6) âm lịch hằng năm trên bến Đình Quan Lạn. Lễ hội Quan Lạn là lễ hội kỷ niệm chiến thắng giặc Nguyên Mông năm 1288 và chiến công của Trần Khánh Dư - một danh tướng thời nhà Trần nổi tiếng về tài cầm quân và đã góp công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của nhà nước Đại Việt.
Ngày 10/6: Khoá làng (một tục làm trong lễ hội của người Việt), dân trong làng không được đi bất cứ đâu nhưng những người làm ăn ở xa và khách thập phương lại có thể về làng dự hội.
Lễ hội Quan Lạn có tục đua thuyền khác với bơi trải. Dân làng chia làm hai phe Đông Nam Văn và Đoài Bắc Võ lập doanh trại riêng từ ngày 13 để luyện quân, chuẩn bị thuyền đua. Thuyền đua thường là thuyền đi biển trọng tải 5 đến 6 tấn, rộng và sâu lòng, được hạ buồm, trang trí đầu rồng ở mũi thuyền.
Ngày 16/6: Làm lễ nghinh thần. Dâng lễ rước bài vị của Trần Khánh Dư từ nghè (cách đình 1,5 km) về đình. Dưới bến, đôi thuyền đua tập luyện tạo một không khí tưng bừng náo nhiệt.
Ngày 18/6 (chính hội): Vào 3 giờ chiều (năm nào cũng vậy thường lúc này nước triều lên tới sát bến của đình) hai bên bắt đầu xuất phát. Lính bên văn áo trắng quần xanh, chân quấn xà cạp xanh, lính bên võ quần áo xám hoặc đen. Tiếng chiêng trống, tiếng hô vang, cờ bay phần phật đầy khí thế. Mỗi khi hai đàn giáp nhau ở sân đình, quân lính cùng dân chúng hét lớn vang dậy cả một vùng. Hai tướng múa những đường đao đẹp mắt, hai đoàn quân gặp nhau ba lần, tượng trưng cho ba lần đánh thắng quân Nguyên thời Trần. Tới lần thứ ba hai đoàn quân tập hợp trước miếu, hai vị tướng vào tế, khi quay trở ra thì cuộc đua thuyền mới chính thức bắt đầu.
Có thể nói, Lễ hội Quan Lạn là một lễ hội mang dấu ấn của một hội làng truyền thống đã thể hiện tinh thần thượng võ của dân tộc chống giặc ngoại xâm bảo vệ chủ quyền đất nước của những người dân vùng biển đồng thời đây cũng là ngày hội cầu được mùa của cư dân vùng biển Vân Đồn.
Lễ hội Bạch Đằng (còn gọi là Giỗ trận) được tổ chức vào ngày mùng 8 tháng 3 (âm lịch) hàng năm tại đền Trần Hưng Đạo, miếu Vua Bà, bãi cọc Bạch Đằng, đình Yên Giang, Đình Trung Bản, Đền Trung Cốc, Đình Đền Công… (xã Yên Giang, Yên Hưng, Quảng Ninh). Lễ hội nhằm ghi nhớ công ơn của các vị anh hùng dân tộc đã có công chống giặc ngoại xâm với trận địa cọc gỗ trên sông Bạch Đằng như Ngô Quyền, Lê Hoàn, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn các danh tướng nhà Trần.
Phần lễ: Lễ dâng hương tại đền thờ Trần Hưng Đạo và miếu Vua Bà. Dân làng rước kiệu dọc bờ sông, cạnh nơi diễn ra cuộc đua thuyền náo nhiệt. Cũng giống như nghi lễ của cư dân sông nước, tục bơi trải là một nghi lễ quan trọng. Trên dòng sông lớn, cuộc đua tài của nhiều thuyền đua hình lá tre lao vun vút, tiếng hò reo của người dự hội trên bờ sông như làm sống dậy âm hưởng của trận chiến năm xưa.
Phần hội: Cùng với bơi trải, nhiều trò chơi cũng được tổ chức như đấu vật, đánh cờ người, chọi gà... Trước kia hội còn tổ chức trò diễn, tái hiện cuộc tập trận của quân dân đời nhà Trần.
Lễ hội Bạch Đằng được tổ chức trên vùng đất cổ với bao chiến tích hào hùng của cha ông trong suốt mấy ngàn năm dựng và giữ nước, hằng năm đã thu hút hàng vạn người con đất Việt từ muôn phương về tham dự.
Đền Cửa Ông thuộc Phường Cửa Ông, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Hội đền Cửa Ông còn gọi là Hội đền Cửa Suốt được tổ chức 2 năm một lần vào năm chẵn nhằm tôn vinh công đức của Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, con trai thứ 3 của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và nhiều tướng lĩnh nhà Trần có công đánh giặc và trấn ải vùng đông bắc. Lễ hội bắt đầu từ 2/1 và kéo dài hết tháng 3. Ngày 2/3 là chinh hội.
Ngày chính hội diễn ra trang trọng với lễ dâng hương và rước bài vị của Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng. Hội nổi bật với lễ rước kiệu từ đền Cửa Ông ra miếu ở xã Trác Chân và quay trở về đền tượng trưng cho cuộc tuần du của Đức Ông và nhiều hoạt động thể thao, văn hoá như: biểu diễn múa rồng và thi đấu cờ người, hát quan họ, thi đua thuyền, bịt mắt đập niêu, bịt mắt đánh trống. Bên cạnh đó còn có một số hội thi: thi tiếng hát khu dân cư, thi đấu cờ bỏi, nấu cơm, têm trầu, soạn lễ, đẩy gậy...Lễ hội đền Cửa Ông là một trong những lễ hội lớn thu hút hàng vạn lượt du khách đến tham quan, nhưng thông thường ngay từ đêm 30 và sáng mồng 1 Tết Nguyên Đán có rất nhiều người dân trong vùng và du khách thập phương đến lễ Đền.
Lễ hội là dịp để nhân dân ôn lại truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của ông cha ta, đồng thời gìn giữ và phát huy những nét đẹp về bản sắc văn hoá dân tộc.
Làng Trà Cổ thuộc Thị xã Móng Cái, Quảng Ninh. Hàng năm hội làng Trà Cổ diễn ra từ 30/5 đến 6/6 âm lịch. Lễ hội tưởng nhớ đến công ơn của Thành Hoàng làng và và Nguyễn Hữu Cầu, một lãnh tụ nông dân thời Lê đồng thời cầu mong trời đất thần linh mang lại những điều tốt lành cho dân làng.
Ngày mùng 1 tháng 6, bắt đầu vào lễ hội là lễ rước Vua ra bể (còn gọi là rước vua ra miếu), với nghi thức một đội quân cầm vũ khí, cờ thần, phường bát âm, bát bửu, tiếp đến là người cầm cờ và phải là người cường tráng trẻ đẹp và có đạo đức được làng bầu chọn từ cuối hội nãm trước cùng những người khiêng kiệu.
Sau lễ rước là cuộc thi các sản phẩm chăn nuôi trồng trọt mà biểu thị chủ yếu là thi các chú lợn mà người ta gọi là các Ông Voi. Các Ông Voi được các cai đám và dân làng chăm sóc chu đáo từ nhiều tháng trước khi vào hội.
Nét độc đáo của lễ hội Trà Cổ là có hội thi làm cỗ, thi nấu ăn, ai nấu ăn giỏi đều được cả làng biết đến. Ngày mùng 6 là ngày kết thúc lễ hội có múa bông. Trong ngày múa bông, người ta cầu mong trời đất thần linh phù trợ cho đánh bắt được nhiều cá tôm, buôn bán phát đạt, chăn nuôi, trồng cây tươi tốt, cuộc sống ấm no.
Lễ hội diễn ra ở đền Thập Cửu Tiên Công, thuộc xã Cẩm La, đảo Hà Nam, huyện Yên Hưng vào ngày mồng 7 tháng giêng âm lịc hàng năm. Đền Thập Cửu Tiên Công (còn gọi là miếu Tiên Công) thờ 19 vị Tiên Công - những người có công đầu tiên quai đê lấn biển lập nên khu đảo Hà Nam trù phú, làng xóm đông vui như ngày nay. Lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ công lao của các vị Tiên Công.
Truyền thuyết kể lại rằng ngày mở hội chính là ngày các vị Tiên Công tìm ra mạch nước ngọt trên đảo cách đây trên 500 năm.
Tại đền Tiên Công các vị chức sắc làm lễ cáo yết Tiên Công và bình chọn bốn cụ thượng thọ khoẻ mạnh, gia đình hoà thuận, con cái chăm ngoan để làm lễ động thổ.
Ngày mồng 7, các cụ thượng thọ từ 70 tuổi trở lên cùng con cháu ra đền lễ Tiên Công. Con cháu đội các mâm lễ vật đi trước. Mâm lễ có trầu cau, rượu, xôi, gà hoặc thủ lợn, đặc biệt là các hương án trên có con long mã kết bằng hoa quả. Các cụ thượng thọ đi sau. Các cụ già yếu thì được con cháu khiêng bằng võng, che bằng lọng. Mỗi gia đình, dòng họ tạo thành một đám rước. Các đám rước nhập lại khi đến gần đền tạo nên một không khí tưng bừng náo nhiệt nhưng rất trang trọng, thiêng liêng. Các cụ vào đền dâng lễ vật và tế Tiên Công, đến giữa trưa phần lễ kết thúc.
Sau lễ tế đến lễ động thổ: bốn cụ đã được chọn bẻ bốn hòn đất đắp đê tượng trưng trước hương án Tiên Công và diễn trò đánh vật, nhằm biểu thị tinh thần đấu tranh với thiên nhiên, tiếp tục sự nghiệp của các Tiên Công quai đê lấn biển, bảo vệ xóm làng.
Sau lễ động thổ, dân làng và dân các nơi khác đến bắt đầu vào cuộc hội náo nhiệt với các trò chơi như chọi trâu, chọi gà, đánh cờ người, chơi đu, trai gái còn hát đám, hát chèo đường suốt ngày hôm đó.
Lễ hội Đền An Sinh diễn ra hàng năm vào ngày 20/8 âm lịch, tại Khu di tích đền, lăng mộ các vua Trần ở xã An Sinh, huyện Đông Triều (Quảng Ninh). Vào ngày lễ hội, du khách thập phương từ khắp các tỉnh thành trong cả nước về đây, dâng hương tưởng nhớ, tôn vinh công lao to lớn của các vị vua Trần.
Trong khuôn khổ lễ hội, diễn ra các hoạt động như: lễ rước, tế, bóng chuyền, biểu diễn võ thuật, thể dục dưỡng sinh, kéo co, đập niêu, thi đấu cờ tướng… cùng nhiều chương trình văn nghệ đặc sắc.
Đền An Sinh thờ 8 đời vua nhà Trần, và đền cũng chính là nơi xưa kia các vua Trần Nhân Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiển Tông, Trần Anh Tông đã tu hành. Đền đã được tỉnh Quảng Ninh đầu tư gần 4 tỉ đồng để khôi phục lại, được hoàn thành năm 2000.
Khu vực đền có diện tích khá rộng, khoảng 80.000 mét vuông. Đứng tại đền, bạn có thể phóng tầm mắt quan sát không gian tĩnh mịch và khoáng đạt quanh đền để có cảm giác thư thái và yên ả. Cổng đền có những hàng nhãn cổ thụ làm cho cảnh quan đền thêm cổ kính. Quanh đền có 14 cây đại, biểu hiện cho 14 đời vua nhà Trần. Trước đền có 8 cây vạn tuế biểu hiện cho 8 vị vua được thờ ở đây.
Một phần quan trọng trong khu di tích An Sinh là phần lăng mộ các vua nhà Trần được xây dựng và táng ở khu vực xung quanh đền với bán kính vài ki lô mét. Đền thờ Trần Nhân Tông (1279 - 1293), được dựng ở núi Ngọc Vân. Mộ Trần Anh Tông (1293 - 1313) còn gọi là lăng Đồng Tâm ở đồi Táng Quỷ. Hiện nay phần mộ này chỉ còn vết tích nền lăng ở đỉnh đồi với các bậc thềm đá và 2 bên thềm là rồng đá mang phong cách nghệ thuật đời Trần; lăng vua Trần Minh Tông (1314 - 1329) nằm ở chân núi trước lăng Trần Anh Tông, lăng được dựng từ đời Trần. Ngoài ra khu di tích này còn có các lăng Trần Hiển Tông và lăng Trần Nghệ Tông.
Lễ hội đền An Sinh được tổ chức hàng năm nhằm phát huy những giá trị lịch sử, truyền thống văn hoá và những chứng tích lịch sử hào hùng của dân tộc.
“Hồng Gai có núi Bài Thơ, có hang Đầu Gỗ, có chùa Long Tiên”. Lễ hội chùa Long Tiên được tổ chức hàng năm vào ngày 24/3 âm lịch, tại chùa Long Tiên, dưới chân núi Bài Thơ, thành phố Hạ Long (Quảng Ninh). Đây là lễ hội không chỉ dành riêng cho các tín đồ đạo Phật, nó mang ý nghĩa tâm linh cao cả cho tất cả mọi người.
Chùa Long Tiên là ngôi chùa lớn nhất ở thành phố Hạ Long được xây dựng từ năm 1941. Ðây là một di tích lịch sử, danh thắng nổi tiếng. Chùa Long Tiên nằm ở chân núi Bài Thơ, gần chợ Hạ Long, một khu phố sầm uất nhất của thành phố Hạ Long. Chùa có phong cách kiến trúc độc đáo hiếm thấy. Trên đỉnh tam quan là tượng Phật A Di Đà với tư thế ngồi, tay giơ cao tạo "An uỷ ấn". Dưới tượng Phật Di Đà là gác chuông, nổi bật ba chữ "Long Tiên Tư".
Ngoài ra còn có bộ tượng Hộ Pháp và đồ tế khí. Trong chính điện ở vị trí cao nhất là hình tượng Di Đà tam tôn. Vị trí thứ hai là A Di Đà tạo thiền thuyết pháp trên đài sen. Vị trí thứ ba là Phật Quan Âm ngàn mắt, ngàn tay, hai bên có Thiện Tài và Long Nữ đứng hầu. Vị trí thứ tư là Ngọc Hoàng Thượng Đế cai quản cõi trời giúp Phật hành pháp. Vị trí thứ năm là tượng Cửu Long (hay Thích Ca sơ sinh), tác phẩm điêu khắc Mẫu (Liễu Hạnh công chúa).
Chùa nằm ở trung tâm thành phố nên rất thuận tiện cho khách đến viếng thăm chùa. Có thể nói chùa Long Tiên ngày nào cũng là hội. Khách du lịch Việt Nam và nước ngoài vào vãn cảnh chùa, các tín đồ dâng hương cúng Phật, tụng kinh... nhưng đông nhất là ngày rằm và mồng một hàng tháng và đặc biệt vào dịp Tết Nguyên đán. này là một tuyệt tác có từ thời Lê. Hai bên tả hữu trong chính điện có tượng Thập điện Diêm Vương. Hai cung tả hữu của chính điện phối thờ cha (bên trái) - Thánh Trần Hưng Đạo và phối thờ mẹ (bên phải), Vân Phương Thánh.
Phần độc đáo nhất trong lễ hội là màn rước kiệu, đoàn rước kiệu sẽ đi qua đền Ðức Ông (đền thờ Ðức Ông Trần Quốc Nghiễn là con cả Trần Hýng Ðạo) đến đền thờ An Dương Vương ở Vụng Ðáng qua Loong Toòng rồi quay lại chùa.
Khi xuân đến, vào mùa trẩy hội của cả vùng Quảng Ninh, ai cũng muốn đến chùa Long Tiên dâng hương trước rồi mới tiếp tục cuộc hành hương tới Yên Tử, tới hội đền Cửa Ông.
Lễ hội xuống đồng là một lễ hội cổ xưa, diễn ra vào tháng 6 âm lịch hàng năm, tại đình Phong Cốc, xã Phong Cốc, huyện Yên Hưng. Ngày lễ các làng trong xã đều chuẩn bị mâm cỗ là những sản vật của địa phương dâng lên hai vị Thần nông và Thần hoàng, để cảm tạ hai vị thần đã phù hộ cho làng mùa màng thuận lợi, bội thu.
Ngoài nghi lễ cúng Thần Nông và Thần hoàng làng cầu mong phù hộ cho mùa màng tốt tươi, thì nội dung chính của lễ hội còn là cuộc thi cấy “Xứng Đồng” và thi bơi thuyền chải giữa các xóm của làng Cốc xưa, nay là xã Phong Cốc và xã Phong Hải và các xã lân cận trong vùng cùng nhiều hoạt động sôi nổi khác....
Ngày hội Xuống Đồng xưa kia được tổ chức vào đầu tháng sáu âm lịch, thời vụ cấy lúa mùa, ngày xưa vùng Hà Nam chỉ có một vụ mùa chính cấy lúa Tám Đồng, vụ mùa thường bắt đầu từ mồng 2 đến ngày mồng 6 tháng 6 âm lịch trong hai ngày. Hội thi bơi thuyền chải truyền thống thường được tổ chức ba keo bơi.
Ngày nay không còn cấy giống lúa mùa Tám Đồng năng xuất thấp và một vụ mùa như xưa. Thời vụ các giống lúa mới mùa sớm, mùa trung, mùa chính cũng thay đổi theo giống lúa. Do vậy việc phục dựng Lễ Hội Xuống Đồng, vì nhiều lý do nên không tổ chức được vào ngày mồng 6 tháng 6 âm lịch đúng ngày cấy vụ mùa chính, mà tổ chức vào hai ngày mồng 10 và 11 tháng 6 âm lịch kể từ năm 2007.
Ngày mồng 10 diễn ra Lễ cáo Yết Thần Hoàng và Thần Nông ở Đình Cốc vào giờ Mùi (từ 13 đến 15 giờ). Lễ cáo Yết ở trong đình theo nghi lễ truyền thống của địa phương; sau đó diễn ra nghi lễ chạy chèo của các đội chải nam, chạy cờ của các đội chải nữ trong cuộc thi bơi Yết. Các đội chải nam bơi 2 keo (1 keo bằng dầm, 1 keo bằng sào, bơi 2 vòng Sông Cửa Đình; các đội chải nữ, bơi 1 keo bằng sào, 1 vòng Sông Cửa Đình. Buổi tối có hát chèo ở sân Đình Cốc.
Ngày 11, từ 5 giờ sáng (giờ Dần) sẽ diễn ra nghi lễ cấy Xứng Đồng, Ông chủ Tế là người cấy lúa Xứng Đồng; tiếp theo là hội thi cấy giữa các xóm của Làng Phong Cốc xưa.
Tiếp đến là nghi thức chạy chèo và thi bơi thuyền chải các keo bơi Giải Hà và bơi Chung Cuộc của các đội chải nam, chải nữ của làng Phong Cốc xưa. (Từ 7 giờ ngày 11, bơi Giải Hà của 6 đội chải nam diễn ra như bơi Yết: 1 keo bơi dầm, 1 keo bơi sào. Mỗi keo bơi đều có chạy chèo và bơi 2 vòng Sông Cửa Đình. Bơi Giải Hà của 6 đội chải nữ, cũng có chạy cờ, bơi bằng dầm một vòng Sông Cửa Đình. Bơi Giải Hà của đội nữ diễn ra ngay sau keo bơi Giải Hà bằng dầm của các đội nam. Thời gian bơi Chung Cuộc diễn ra ngay sau khi bơi Giải Hà. Các đội chải tiếp tục chạy chèo đối với nam và chạy cờ đối với nữ để vào bơi Chung Cuộc. Sau keo bơi Giải Hà và bơi Chung Cuộc còn gọi là bơi Giã Hội, đến tổng kết giải Bơi, trao thưởng; Tế giã Hội ở Đình Cốc theo nghi lễ truyền thống.
Lễ hội được tổ chức vào ngày 29-4 dương lịch, tại Đền thờ Đức Ông Trần Quốc Nghiễn nằm dưới chân núi Bài Thơ, Bến Đoan, Hạ Long.
Lễ hội đền thờ Đức Ông đã được tổ chức long trọng và hấp dẫn với hành trình rước kiệu từ đền qua cổng chợ Hạ Long đến chùa Long Tiêu, dâng hương ở Cung văn hóa Lao động hữu nghị Việt - Nhật rồi đưa trở lại đền. Không khí của lễ rước náo nhiệt và đông vui. Tiếng sênh, tiếng phách, tiếng nhị hòa cùng tiếng cười nói…
Có đủ thành phần từ con trẻ, thanh niên đến người cao tuổi tham dự. Ai cũng váy áo xúng xính, rộn rã sắc màu, bất chấp trời mưa diễu hành trên phố, đem lại sự náo nức và rộn ràng cho người dân quanh vùng và du khách tham quan.
Người dân ở đây tin rằng trong đám rước kiệu Đức Ông, nếu cho trẻ con chui qua gầm kiệu sẽ dễ nuôi, hay ăn chóng lớn, người lớn chui qua kiệu gặp nhiều bình an và may mắn.
Đền thờ Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn là con trai cả Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, là một vị tướng tài ba và có nhiều công lao trong cuộc chiến chống lại giặc Nguyên những năm cuối thế kỷ 13. Mùa hạ tháng 4-1289, khi triều đình xét công lao đánh giặc Nguyên, ông đã được tước phong danh hiệu Khai Quốc Công. Không chỉ là người dũng mãnh can trường trong trận mạc, Đức Ông cũng là người nhân từ đức độ trong đời thường. Khi qua đời, triều đình đã ban cho ông Thần Hiệu “Đông Hải Đại Vương”.
Không ai biết đền thờ Đức Ông được xây chính xác từ khi nào. Đền đã qua nhiều lần trùng tu và hiện nay gồm có ba gian bái đường và một hậu cung. Trong đền có một bia đá được dựng và khắc tháng 10 năm Quý Sửu (1913) bởi các chủ thuyền thường hay qua lại nơi này khi trùng tu đền.
Nội dung bia viết: Xét thấy nơi đây (núi Bài Thơ) sơn thủy hữu tình, đền đài tráng lệ quả là nơi linh thiêng đệ nhất thiên hạ mà ai nấy phải tôn kính. Nay bọn chúng tôi (các chủ thuyền) từ xa xôi ngàn dặm đến đây vượt qua bao sông, bao biển, nếu không nhờ cậy vào sự phù giúp của Đại Vương thì làm sao được như thế. Nhưng vì ngôi đền cổ xưa bị gió dập, mưa vùi mà thấy bùi ngùi khôn nguôi. Tôi họp các bạn thuyền cùng đồng tâm hiệp lực xây lại ngôi đền cổ để việc phụng thờ Thần được lâu dài…”.
Lễ hội đền thờ Đức Ông là một hoạt động có ý nghĩa nhằm tôn vinh các giá trị lịch sử của ông cha, đồng thời cũng là dịp để tổ chức hoạt động sinh hoạt cộng đồng nhằm làm phong phú thêm đời sống tinh thần của đất và người Hạ Long.
Lễ hội được tổ chức từ ngày 29-5 đến 2-6 âm lịch hàng năm, tại xã Cẩm Hải (TX Cẩm Phả). Cùng với các nghi lễ rước kiệu, tại lễ hội còn diễn ra cuộc đua thuyền của các thôn trong xã. Lễ hội đình làng Cẩm Hải cũng thể hiện mong muốn của người dân trong xã về một năm mưa thuận gió hòa, cuộc sống bình yên, no ấm.
Đình làng do những người dân Trà Cổ (Móng Cái) di cư về xã Cẩm Hải xây dựng từ năm 1980 và lễ hội được tổ chức hàng năm nhằm tôn vinh và tưởng nhớ công lao của 6 vị thành hoàng là những người đã có công khai sinh ra đất Trà Cổ (TP Móng Cái).
Tương truyền, có 12 vị Tiên công từ Đồ Sơn (TP Hải Phòng) giong thuyền về phương Bắc lập nghiệp. Đến vùng biển Móng Cái, họ gặp một cơn bão lớn, thuyền trôi dạt vào vùng đất hoang vu không có bóng người. Cuộc sống ở vùng đất mới khổ sở quá, 6 người trong đoàn người quyết định quay về Đồ Sơn. 6 người ở lại quyết định làm nghề chài lưới đánh cá và đã hình thành nên làng chài Trà Cổ. Sau này, dân làng tôn 6 vị Tiên công là thành hoàng và thờ tại đình Trà Cổ. Năm 1979, người dân ở hai thôn Tràng Lộ, Tràng Vĩ của Trà Cổ di cư về thôn Cái Thấp (xã Văn Châu, Vân Đồn - nay là xã Cẩm Hải, TX Cẩm Phả) lập làng mới và góp tiền, góp công xây dựng đình làng Cẩm Hải vào năm 1980. Cũng từ đó, lễ hội đình Cẩm Hải được tổ chức hàng năm, trở thành truyền thống, thành một hoạt động văn hóa đầy ý nghĩa của người dân địa phương.
Ở lễ hội đình, người dân Cẩm Hải tôn kính rước kiệu 6 vị đại vương với những nghi thức rất trang trọng. Đội khiêng kiệu được lựa chọn cẩn thận từ những thanh niên trai tráng trong làng. Đi cùng là đội cầm vũ khí, cờ thần, phường bát âm, bát bửu... và nhân dân trong xã cùng du khách thập phương. Lễ rước kiệu rất rộn ràng, thu hút sự tham gia của hàng ngàn người.
Ngoài ra, lễ hội đình Cẩm Hải còn một nghi lễ nữa rất độc đáo là lễ rước các “Ông Voi”. Đây là cách gọi kính trọng của người dân địa phương về lễ rước 6 chú lợn. 6 chú lợn đó được làng lựa chọn và giao cho 6 người đàn ông trong làng chăm sóc. Việc chọn lợn, chọn người nuôi cũng phải theo quy định rất nghiêm ngặt. “Ông Voi” phải là lợn đực Móng Cái, lông màu trắng. Người được chọn nuôi “Ông Voi” là đàn ông một vợ (trường hợp bỏ vợ, hay vợ chết lấy vợ khác cũng bị loại). Người đàn ông này trong năm đó không được ăn chung bát đũa với ai. Khi có việc đi xa làng phải mang theo cơm nắm nước uống chứ không được vào ăn hàng quán, không được ăn thịt chó, hay nội tạng động vật. Thậm chí có thời gian người nuôi “Ông Voi” cũng không được cắt tóc, vì khi cắt tóc là đã bị người khác nắm đầu, hoặc xoa đầu dẫn đến mất thiêng...
Còn về phần “Ông Voi”, cũng phải ăn bằng chậu riêng, được chăm sóc đặc biệt. Trong 6 tháng đầu, các “Ông Voi” ăn uống bình thường, nhưng 6 tháng sau các “ông” được ăn cơm nắm đút tận miệng, hoặc ăn phở, cháo tuỳ theo ý thích của từng “ông”. Chính vì thế các “Ông Voi” được kiệu ra đình, đều có trọng lượng từ 2,2 đến 3 tạ.
Tham gia rước các “Ông Voi” là gần chục thanh niên khoẻ mạnh mà vẫn phải đỗ nghỉ nhiều lần. Sau lễ hội, các “Ông Voi” được mổ thịt, ưu tiên cho người dân trong làng mua trước, khi mua không hết mới bán ra ngoài. Tương truyền, người ăn thịt “Ông Voi” sẽ gặp nhiều may mắn, có sức khoẻ và một năm làm ăn bội thu.
Lễ hội đền Bà Men, Quảng Ninh là lễ hội độc đáo, mang đậm tín ngưỡng và văn hóa đặc trưng của làng chài trên Vịnh Hạ Long, được tổ chức thường niên vào ngày 18, 19 tháng Giêng âm lịch.
Đã đi vào tiềm thức, mấy chục năm qua cứ tới ngày 18, 19 tháng Giêng là tất cả ngư dân của các làng chài trên Vịnh Hạ Long, Cát Bà lại tụ về đền Bà Men để tổ chức lễ hội. Đền Bà Men nằm trên một bãi cát tương đối rộng ven đảo đá, cách hồ Ba Hầm khoảng 500m theo đường chim bay và cách đất liền khoảng hơn 30km là nơi giáp ranh giữa di sản Vịnh Hạ Long với bên kia là huyện Cát Bà (Hải Phòng). Cũng có lẽ vì địa thế nằm ở vùng giáp ranh giữa hai tỉnh mà lễ hội Bà Men độc đáo hơn các lễ hội khác. Lễ hội không có ban tổ chức đại diện đoàn thể, chính quyền mà chỉ có 1 người là ông chủ nhang của đền. Dân làng chài kính trọng và tuân theo sự điều hành của ông Nguyên Văn Miên, ngư dân làng chài Cao Minh, Cát Bà. Đã 20 năm nay ông nhận trách nhiệm nhang khói, chăm sóc cho ngôi đền toàn tâm, toàn ý mà không chút vụ lợi.
Ngư dân ở đây truyền tai nhau về sự linh ứng của đền Bà Men. Tàu bè qua lại nơi đây đều ghế lên đền thắp hương và gọi đây là Cửa Bà. Ngày nay, ngôi đền đã được tôn tạo lại có kè đã vững chắc để chống chọi với sóng gió biển khơi.
Lễ hội Bà Men cũng có phần lễ và phần hội. Phần lễ diễn ra từ ngày 18 tháng Giêng cho tới trưa ngày 19 tháng Giêng. Ngay từ sáng sớm, tàu bè của ngư dân Hạ Long và Cát Bà đã neo đậu trật tự ngay trước cửa đền. Các ngư dân, hội Phật tử, du khách thập phương dâng hương hoa lễ vật lên đền. Có lẽ vì là làng chài nên thay cho các hình nộm voi, ngựa, xe như người ở trên bờ, ngư dân dâng lễ vật là hình nộm con tàu, thuyền, với mong ước một năm đi biển gặp mọi sự thuận hoà, bình yên.
Phần hội diễn ra từ trưa ngày 19 tháng Giêng thu hút đông đảo bà con tham gia với cuộc thi đua chải diễn ra giữa các làng chài. Theo thông lệ mọi năm, tham gia cuộc thi gồm có 4 đội chải gồm Cống Đầm - Vung Viêng, Cửa Vạn, Hà Nam (hồ Ba Hầm) và Cao Minh (Cát Bà). Mỗi chải gồm 14 tay chèo và 1 người cầm lái. Đường đua dài khoảng 500m, điểm xuất phát từ trước cửa đền. Các chải sẽ đua 2 vòng, chải nào về đích trước sẽ thắng. Hai bên đường đua, cổ động viên hò reo cuồng nhiệt. Đội nào cũng cố gắng hết sức để giành chiến thằng bởi theo quan niệm của ngư dân các làng chài, làng nào giành chiến thắng trong đua chải thì năm ấy người dân trong làng đi biển gặp nhiều may mắn.
Đất Quảng Ninh có nhiều lễ hội nhưng có lẽ chỉ có lễ hội đền Bà Men mới có những nét độc đáo khác lạ, thú vị nhất có lẽ là sự gắn kết chặt chẽ của ngư dân hai tỉnh Hạ Long và Hải Phòng. Trải qua hàng chục năm, lễ hội vẫn tồn tại và phát triển thể hiện nét đẹp của tình đoàn kết keo sơn găn bó một nhà giữa những người con làng chài đất Việt.
Xã Bằng Cả huyện Hoành Bổ, tỉnh Quảng Ninh là nơi đồng bào dân tộc người Dao Thanh Y sinh sống. Đã từ nhiều đời nay, ở xã Bằng Cả có một sinh hoạt văn hoá mang tính truyền thống, tính cộng đồng cao, đó là “ Hội làng Bằng cả”. Hội làng Bằng Cả được diễn ra vào 5 ngày trong năm vào những ngày: ngày 1 tháng, ngày 1 tháng 4; ngày 1 tháng 7; ngày 1 tháng 10 và ngày 20 tháng chạp là lễ tổng kết năm.... Trong đó, ngày Lễ chính đầu năm mới (1-2 âm lịch) được tổ chức lớn nhất.
Trước kia hội làng có nhiều quy định rất nghiêm ngặt, người đến dự hội làng trước đây chủ yếu là nam giới, chủ hộ gia đình, trên nguyên tắc tự nguyện. Ngày nay, nguyên tắc khắt khe ấy cũng dần được bỏ qua. Ngày nay vào ngày hội, con cháu các dòng họ người Dao Thanh Y trong làng dù đi đâu xa cũng quy tụ về chung vui hội làng.
Đây là Lễ hội truyền thống của đồng bào người Dao Thanh Y tại Bằng Cả, với ý nghĩa cầu trời, thổ địa, thổ công, thành hoàng làng phù hộ cho dân bản năm mới mưa thuận, gió hoà, làm ăn phát đạt, mùa màng tốt tươi; Cầu chúc cho các dòng họ, dân bản hạnh phúc, mạnh khỏe, đoàn kết, sống vui vẻ thuận hoà…
Đên ngày hội mỗi hộ gia đình đóng góp một số vật phẩm như gà, gạo nếp, rượu chua…cho thầy mo (trưởng tộc) của các dòng họ Dao Thanh Y. Ông thầy mo phải là người cha truyền, con nối, nối dõi tông đường. Nếu ông thầy mo qua đời người nối tiếp phải được dân bản bầu chọn lại. Ông trưởng tộc phải có đủ điều kiện, đã theo học học nghề thầy mo biết các bài khấn trong hội làng, đồng thời là người có đủ uy tín, được các dòng họ tín nhiệm ... để giúp thầy mo trong hội làng. Việc đóng góp vật phẩm được làm công minh: Làng bầu ra một thủ quỹ để cân đo, ghi chép những vật phẩm do làng đóng góp, một ông kế toán quyết toán sau hội làng, nếu phần đóng thừa thì được lấy ra, nếu thiếu thì phải nộp thêm vào, phải công khai tài chính với dân làng sau khi kết thúc hội làng. Các vật phẩm sau khi được mọi nhà đóng góp, thịt gà, thịt lợn được đem luộc, gạo nấu xôi, làm bánh và trứng cũng được luộc. Sau khi soạn ra hai mâm để thầy mo cả và thầy mo hai làm lễ cầu khấn. Trong mâm lễ của thầy mo cả có đủ gà luộc, trứng luộc, thịt luộc, gạo sống, tiền, xôi, bát, vàng hương; một bát to của các dòng họ trong bản, một bát to của gia tiên nhà ông thầy mo, cả hai bát đều được thắp hương, mọi việc chuẩn bị xong ông thầy mo cả, thầy mo hai đều quần áo chỉnh tề bắt đầu vào nghi thức cầu khấn. Riêng ông trưởng tộc cầm kiếm thiên đình làm phép thuật. Lễ cầu thứ nhất: cầu trời, thổ địa, thổ công, thành hoàng làng phù hộ cho dân bản năm mới mưa thuận gió hoà làm ăn phát đạt mùa màng tốt tươi. Lễ cầu thứ hai: Cầu cho các dòng họ, dân bản hạnh phúc, mạnh khỏe, đoàn kết, sống vui vẻ thuận hoà. Lễ cầu thứ ba: Cầu cho mùa màng tốt tươi, tăng gia sản xuất chăn nuôi phát triển. Sau mỗi lần cầu khấn, ông trưởng tộc dùng thanh gươm thiên đình múa để trị tà, và xin âm dương rồi hoá vàng mã. Mọi hành lễ làm xong, mọi người quây quần ngồi ăn bốc, cùng uống rượu chua- một thứ rượu mà chỉ ở Bằng Cả mới có.
Sau các nghi thức cầu khấn, ăn uống vui vẻ, họ lại cùng nhau tụ tập vui chơi với các trò chơi dân gian như: Đánh cờ dân gian, ném còn, kéo co, bắn nỏ hay đẩy gậy...rồi lại cùng nhau hát đối giao duyên...
Lễ hội đình Lạc Thanh, lễ hội cổ xưa của người dân phường Yên Thanh, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh thường được tổ chức vào ngày 14, 15/3 Âm lịch để tri ân với tổ tiên và cầu mong sự ấm no, may mắn.
Đình Lạc Thanh xưa được xây dựng vào nửa cuối thế kỷ XVII ở xứ đồng Cổ Bồng để thờ Nghè Cả (Thành hoàng làng). Năm 1898, đình được xây dựng lại ở vị trí ngày nay. Trong một thời gian dài, đình bị bỏ hoang phế. Mãi đến năm 1995, đình mới được nhân dân tu sửa lại và đưa bát hương vào thờ cúng thành hoàng. Năm 2000, nhà sư Thích Minh Trí đã quyên góp công đức xây dựng chùa trong khu đất của đình và năm 2004 thì trùng tu lại đình và hình thành một quần thể di tích đình, chùa trang nghiêm như ngày nay trong khuôn viên rộng hơn 2000ha. Cùng với những thăng trầm của đình Lạc Thanh, lễ hội đình Lạc Thanh cũng mai một từ đó mãi tới năm 2011 mới được phục dựng lại và trở thành một lễ hội độc đáo của tỉnh Quảng Ninh. Lễ hội không chỉ khơi dậy ý thức bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá của người xưa để lại mà còn góp phần tích cực vào phát triển du lịch văn hoá tâm linh của Uông Bí nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung.
Đình Lạc Thanh thờ 12 vị thành hoàng, trong đó có 2 vị nhân thần và 10 vị thiên thần. Ngoài thờ chung ở đình, các vị thành hoàng còn được thờ ở 10 xứ là nơi các vị được giao cai quản, trấn giữ gọi là nghè. Lễ hội được tổ chức chính ở đình, chùa Lạc Thanh, 5 ngôi nghè còn nguyên vẹn đến ngày nay và một vài điểm khác nữa.
Việc chuẩn bị lễ hội diễn ra rất công phu từ trước đó cả năm trời. Làng sẽ cử ra các cai đám để trong coi các nghè trong vòng một năm và chuẩn bị các lễ vật để tế lễ lên Thành hoàng làng. Các lễ vật bao gồm: 1 con lợn, 1 con gà trống to, gạo nếp, gạo tẻ, rượu trắng ngon… Lễ vật sau khi cúng tế xong, một phần để lại nấu cho các vị cao niên, chức sắc và những người phục dịch ăn uống ngay tại đình, còn lại làm quà biếu. Lộc Thánh rất thiêng nên việc ăn uống tại công đình được xem là niềm vinh hạnh lớn của mọi người dân trong làng.
Phần lễ của lễ hội đình Lạc Thanh được tổ chức trang trọng trong suốt hai ngày diễn ra lễ hội với các nghi lễ truyền thống như: Nghi lễ thỉnh mời các vị Thành hoàng về đình an vị, lễ cáo yếu, nghi lễ rước, nhập tịch, an vị, tế Thành hoàng tại đình... Sáng ngày khai hội, các đoàn rước trong trang phục chỉnh tề, cờ, lọng, kiệu, ngai, đồ tế khí xếp thành hàng theo thứ tự quy định ở sân nghè. Sau khi ông cai đám vào nghè thắp hương làm lễ mời và dâng bài vị Thành hoàng lên ngai kiệu, các đoàn rước bắt đầu rước Thành hoàng về đình dự hội. Khi đoàn rước về đến đình, sau các thủ tục cúng nhập tịch và an vị, lễ tế Thành hoàng sẽ diễn ra rất trang nghiêm. Sau phần tế lễ là nghi thức giao điệt (đập đất, đắp đê) nhằm nhắc nhở dân chúng nhớ về việc khai canh trị thuỷ, mở mang làng xã của cha ông để lại, đồng thời thực hiện nghi thức đấu vật - biểu trưng sức khoẻ của những người quai đê lấn biển, mở đất, dựng làng, lập nên làng xã Lạc Thanh. Nghi thức này sẽ do hai người cao tuổi mẫu mực đại diện cho cả làng thực hiện.
Phần hội diễn ra sôi nổi với nhiều trò chơi dân gian phong phú như: múa lân, cờ người, cờ tướng, tổ tôm điếm, đánh đu, chọi gà, đấu vật; tham gia biểu diễn văn nghệ của CLB hát dân ca phường.
Lễ hội đình Vạn Ninh được tổ chức từ ngày mồng 10 và 11 tháng Giêng hàng năm tại thôn Trung, xã Vạn Ninh, thành phố Móng Cái.
Cùng với hệ thống các di tích của Móng Cái như: Đền Xã Tắc, đình Trà Cổ, đình Tràng Vỹ, đền Thánh Mẫu, chùa Nam Thọ, chùa Xuân Lan, đình làng Bầu..., đình Vạn Ninh là biểu trưng cho văn hoá truyền thống của dân tộc, là “cột mốc văn hoá” khẳng định chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam nơi địa đầu Tổ quốc.Từ xưa tới nay, đình Vạn Ninh luôn có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh cộng đồng làng xã của xã Vạn Ninh nói riêng, của nhân dân châu Vạn Ninh (Móng Cái ngày nay) nói chung.
Đất Vạn Ninh xưa là nơi Lý Thường Kiệt tập kết thủy quân trong trận chiến chống quân Tống xâm lược. Sau này, để tưởng nhớ công lao của ông, nhân dân xã Vạn Ninh, châu Vạn Ninh đã xây dựng đình Vạn Ninh, tôn Lý Thường Kiệt làm thành hoàng làng và phối thờ cùng các vị thành hoàng khác ở trong đình. Đình Vạn Ninh thờ 8 vị thần và thành hoàng là Lý Thường Kiệt, Không Lộ thiền sư, Giác Hải thiền sư, Trần Hưng Đạo, Trần Thánh Tông, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Lê Lợi. Ngày nay, đình vẫn còn lưu giữ các sắc phong từ thời vua Tự Đức cho Lý Thường Kiệt, Không Lộ thiền sư và Giác Hải thiền sư, Trần Hưng Đạo. Số còn lại được lưu giữ tại Viện Hán Nôm. Tuy nhiên, vì nhiều lý do mà trong một thời gian dài, đình Vạn Ninh bị hư hỏng nặng, mãi đến năm 2006 – 2007 mới được phục dựng lại như nguyên mẫu và được công nhận là di tích lịch sử, văn hóa của tỉnh năm 2011. Lễ hội đình Vạn Ninh cũng do đó mà mai một dần, đến năm 2008 mới được phục dựng và tổ chức với quy mô lớn như trước kia.
Hàng năm, vào ngày 10, 11 tháng Giêng, người dân Vạn Ninh lại tưng bừng tổ chức Lễ hội đình Vạn Ninh để tỏ lòng biết ơn Thần, Thành hoàng, tổ tiên đã phù hộ, độ trì cho dân làng trong năm qua, cầu xin phước lành cho năm tới và giáo dục con cháu về truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Đông đảo người dân trong vùng và ở những vùng lân cân tới tham dự lễ hội. Phần lễ diễn ra trang nghiêm với các nghi lễ như: Lễ cáo yết; Lễ rước Thần - Thành hoàng; Lễ nghênh Thần - Thành Hoàng; Lễ an vị; Lễ nhập tịch; Lễ cúng Thần - Thành hoàng; Lễ tế; Lễ tống (tiễn).
Phần hội diễn ra sôi nổi trong suốt hai ngày diễn ra lễ hội. Lễ hội đình Vạn Ninh nổi tiếng với “đặc sản” hát ca trù (hát cửa đình), người dân Vạn Ninh thường gọi là hát Nhà tơ, hát chầu thần hay hát chúc thần. Hát Nhà tơ ở lễ hội đình Vạn Ninh là một loại hình hát nghi lễ đặc sắc, mang đậm bản sắc vùng miền. Vạn Ninh cũng được xem là một trong những cái nôi của nghệ thuật hát nhà tơ, hát cửa đình ở Quảng Ninh ngày nay. Ngoài phần hát Nhà tơ, các trò hát dân gian như: hát đối, hát ví, hát cưới, múa; các trò chơi truyền thống như: chơi cờ người, cờ tướng, kéo co…; và các hoạt động giao lưu văn nghệ, bình thơ,… đã thu hút rất đông du khách và nhân dân trong và ngoài thành phố đến tham dự.
Lễ hội đình Vạn Ninh là lễ hội dân gian, mang ý nghĩa tâm linh độc đáo và có giá trị tinh thần to lớn đối với mỗi người dân Vạn Ninh cũng như người dân thành phố Móng Cái. Việc phục dựng, tổ chức lễ hội Vạn Ninh không đơn thuần là việc gìn giữ những nét đẹp văn hóa dân gian mà cha ông để lại cho hậu thế mà còn có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển du lịch tâm linh của thành phố Móng Cái nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung.
Nghi lễ cấp sắc là nét văn hóa độc đáo của đồng bào Dao Thanh phán Hoành Bồ. Mọi người con trai Dao Thanh phán đều phải làm lễ cấp sắc, đó vừa là nghĩa vụ, là bổn phận, vừa là niềm vinh dự, tự hào của mỗi chàng trai người Dao…
Đây là một trong những nghi lễ quan trọng nhất của người Dao Thanh Phán ở Hoành Bồ. Trong đó chứa đựng nhiều nội dung tư tưởng mang tính giáo dục sâu sắc, thể hiện bản chất tốt đẹp và mang đậm bản sắc dân tộc Dao. Thông qua nội dung các bài cúng khấn, các bài hát trong lễ cấp sắc đã nói lên khát vọng của con người mong muốn có một cuộc sống sung sướng và hạnh phúc, thể hiện những quan niệm về đạo đức, chứa đựng những giá trị nhân bản mang tính hướng thiện và có tác dụng giáo dục sâu sắc.
Trình tự hành lễ như sau:
Các bước làm lễ cấp sắc khá cầu kỳ và kéo dài tới 3 ngày, 3 đêm, nay các thủ tục có thể được rút gọn nhưng vẫn phải đảm bảo đủ các trình tự hành lễ. Đầu tiên là lễ dâng hương có ý nghĩa báo cho ông bà tổ tiên, thần linh được biết gia đình có người làm lễ cấp sắc. Đây cũng là giờ phút thiêng liêng nhất mở đầu cho thời gian làm lễ kéo dài cũng là lúc không khí tưng bừng, sôi động nhất. Tiếng trống, tiếng chuông, tiếng kèn vang lên rộn rã. Các thầy cúng, người giúp việc, người được cấp sắc và đặt tên đều cùng nhảy múa theo tiếng nhạc, thu hút đông đảo nhân dân trong xóm ngoài làng cùng đến xem đông như hội.
Sau lễ dâng hương là đến lễ khai đàn với ý nghĩa từ giờ phút này mảnh đất này trở nên thiêng liêng bởi đã có ông bà tổ tiên thần linh về ngự giám, bởi vậy mọi việc làm đều phải thận trọng. Tiếp theo là lễ dâng đèn với ý nghĩa dẫn dắt người được cấp sắc đi vào con đường học hành để nâng cao sự hiểu biết…
Lễ cấp sắc kết thúc vào lúc nửa đêm, từ đây mọi nghi lễ còn lại chủ yếu dành cho người được cấp sắc. Như lễ Thượng quang (lễ tế trời) nhằm cảm ơn và cầu mong trời phù hộ cho gia chủ và người được cấp sắc, đặt tên gặp mọi điều tốt lành trong cuộc sống. Lễ còn có ý nghĩa là đón ánh sáng thiêng liêng toả ra từ vị vua có quyền uy tối cao ở trên trời là Ngọc Hoàng thượng đế. Bởi vậy, lễ Thượng quang được làm ở ngoài trời vào lúc rạng sáng.
Kết thúc phần lễ, thầy cả cầm tù và giương lên trời cao thổi liên tục những hồi dài. Tiếng tù và cất lên vang vọng khắp bản làng, khắp núi rừng trong đêm thanh vắng làm cho cuộc lễ càng trở nên thiêng liêng huyền bí. Được chứng kiến cảnh thầy cúng nhảy múa tế lễ và thổi tù và trong lễ Thượng quang khiến ta liên tưởng đến những cuộc tế lễ thần linh của các bộ tộc thời lịch sử xa xưa của loài người. Đó chính là nét độc đáo mang tính chất nguyên bản của lễ cấp sắc của tộc người Dao Thanh Phán ở Hoành Bồ.
Lễ Giao dấu ấn được làm sau đó với ý nghĩa từ nay trở đi người được cấp sắc có thể làm thầy được. Nhưng khi đã được trao ấn mộc rồi người được cấp sắc vẫn phải miệt mài học tập để nâng cao kiến thức nhiều hơn nữa thì mới được trao ấn có mực. Kết thúc bài khấn, thầy cả giao con dấu cùng với 2 mảnh âm dương cho người được cấp sắc. Con dấu và 2 mảnh âm dương được gói trong một chiếc khăn tay coi như vật bảo bối của gia đình và được cất giữ rất cẩn thận. Sau này nếu người được cấp sắc đi làm thầy cúng thì mang theo và đem con dấu này ra dùng. Đây là giây phút thiêng liêng và tự hào đối với người được cấp sắc trong ngày lễ trọng này. Sau đó là lễ cấp binh với ý nghĩa từ nay trở đi người được cấp sắc được cấp một số binh lính để che chở bảo vệ trong cuộc sống hàng ngày. Tiếp đó là đến lễ kết hôn với ý nghĩa là để Ngọc Hoàng Thượng đế và các thần linh chứng giám và nhận người vợ của thầy ở trên dương gian trần thế cũng là vợ của thầy ở cõi âm, để sau này khi qua đời vợ chồng thầy vẫn ở bên nhau…
Hiện nay ở một số xã vùng cao như Đồng Lâm, Đồng Sơn, Kỳ Thượng của huyện Hoành Bồ, những gia đình dân tộc Dao Thanh Phán có điều kiện về kinh tế vẫn tổ chức lễ cấp sắc cho con cháu trong gia đình dòng tộc. Tuy nhiên, nhiều địa phương khác đến nay đã không còn tổ chức lễ cấp sắc thường xuyên như trước đây vì nhiều lý do về nhận thức, về kinh tế. Xác định đây là một di sản quý, Quảng Ninh cần có biện pháp cụ thể để bảo tồn và phát huy tốt lễ cấp sắc trong thực trạng di sản đang biến dạng và có nguy cơ mai một dần trong đời sống hôm nay.