Hội Trám có lẽ là lễ hội duy nhất mang đậm màu sắc phồn thực, đề cao tính dục của người dân đồng bằng Bắc bộ, nơi vốn mang đậm tín ngưỡng của nền văn hóa lúa nước, với những lễ đầu xuân cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt…Hội Trám được người dân xã Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ bảo tồn từ bao đời nay với đặc trưng riêng của mình. Trước kia, hội Trám hay trò Trám đã có lúc bị gián đoạn vì chiến tranh nhưng năm 1993 hội Trám đã được phục dựng.
Mở đầu lễ hội là lễ mật, còn gọi là lễ “linh tinh tình phộc”. Sau lễ tế (thường bắt đầu vào lúc 23 giờ kém ngày 11 tháng giêng) do 13 bô lão trong làng thực hiện, đúng giờ Tý (0h) cụ từ miếu Trò thắp hương và rước nõ, nường – hai vật biểu thị cho hai giới tính nam và nữ (được làm bằng gỗ mít, sơn son đỏ) thờ trên ban Thượng miếu Trò xuống và trao cho một đôi nam nữ đã được chọn từ trước.
Nam đóng khố, cởi trần, đầu chít khăn đỏ, cầm nõ; nữ mặc yếm, váy ngắn thâm, đầu vấn khăn, cầm nường. Sau khi làm lễ khấn thần miếu xong, cụ từ xin âm dương rồi hô khẩu lệnh: Linh tinh tình phộc! (hô ba lần). Lúc này, tất cả đèn, nến trong và ngoài miếu đều tắt hết. Sau mỗi câu khẩu lệnh: “Linh tinh tình phộc”, đôi nam nữ cầm “nõ, nường” làm các thao tác hoạt động tính giao. Mỗi lần hai vật âm dương chạm nhau, chiêng trống lại nổi lên, dân làng đứng xung quanh miếu lại reo hò vui vẻ - không khí tĩnh mịch giữa đêm khuya được sống dậy tưng bừng.
Sau lễ “Linh tinh tình phộc”, còn có trò “Rước lúa thần” được tổ chức hết sức long trọng vào sáng 12 tháng giêng. Lúa thần là những bông lúa thật to, thật mẩy, lá lúa được tượng trưng bằng lá mía được đặt trên hương án kiệu, giữa cắm một gióng mía to, róc vỏ. Trò “Rước lúa”, ngoài mục đích cầu mong cho mùa màng tươi tốt còn là sự ngợi ca lòng biết ơn của dân làng đối với các vua Hùng - những người đã dạy cho người dân nghề trồng lúa nước.
Phần sau cùng của Trò Trám là hội trình nghề “tứ dân chi nghiệp” (sĩ, nông, công, thương) hay còn gọi là trò “Bách nghệ khôi hài”. Nói là “tứ dân” nhưng thực ra có rất nhiều nghề. Họ diễn trò tại sân miếu rồi kéo ra các đường làng. Ở Trò Trám không có những trò đề cao tài trí, đề cao tinh thần thượng võ... mà chỉ có những trò (và những lời ca) vui nhộn, thậm chí rất tục, mang tính hài hước, mua vui, rất gần với sinh hoạt đời thường (bởi vậy những trò này còn được gọi là trò “nhây nhả”). Truyền thuyết cho rằng “tứ dân chi nghiệp” xuất hiện từ lâu nhằm tiến cúng tổ Hùng Vương và thần Tản Viên đã có công lao dạy cho dân Lạc Việt các nghề nông và thủ công từ thuở dựng nước. Để tỏ lòng biết ơn, hằng năm, dân mở hội trình với thần linh các nghề nghiệp của làng, cầu mong được phù hộ. Dần dần, có sự phân biệt giữa các giới, các ngành; trò trình bốn nghề nghiệp chính: Sĩ, nông, công, thương. Trong ngày hội “bách nghệ khôi hài”, các nhân vật công diễn các vai thợ cày, thợ cấy, thợ mạ, thợ gặt, thợ mộc, người chăn tằm, dệt vải, thầy đồ, thầy thuốc, thầy cúng, người đi buôn, đi câu, bắt cá,… với những động tác, ngôn ngữ gây cười cho dân làng. “Bách nghệ khôi hài” là ngày hội tự do, chỉ tuân thủ các nghi thức cần thiết khi hành lễ, các trò chơi đều do quần chúng tham gia tự phát. Do đó, nó có những màn hoạt cảnh, mang nhiều yếu tố của sân khấu dân gian. Bổ sung cho các động tác là những lời ca, những lời ca ngoa dụ, phong phú, đầy ẩn ý, vừa được nâng cao về mặt nghệ thuật, vừa giữ tính chất hài hước; luôn gợi mở sự liên tưởng, tục nhưng thanh…
Trước kia do định kiến cho rằng màn “linh tinh tình phộc” tục tĩu nên suốt một thời gian dài mấy chục năm sau cách mạng tháng Tám nó bị cấm cửa, không được diễn mặc cho mỗi độ tiết mưa phùn đầu xuân, dân Tứ Xã lại tha thiết nhớ về hội vui thủa nào. Đến năm 2001, khi miếu Trò được dựng lại, thì người xóm Trám thật vô cùng hãnh diện. Miếu Trò, nơi diễn ra trò Trò, từ đó hằng năm đã trở thành trung tâm lễ hội của người Tứ Xã, Lâm Thao; thành nét đẹp riêng có của lễ hội vùng đất Tổ.
Lễ hội Đình Thạch Khoán là lễ hội của người Mường ở huyện miền núi Thanh Sơn, Phú Thọ. Lễ hội gắn với ngôi đình cổ duy nhất của người Mường trên đất Phú Thọ nơi thờ thờ đức thánh Tản Viên Sơn thời Hùng Vương, 3 vị công chúa con gái Vua Hùng và 4 vị thổ tù họ Đinh người Mường xã Thạch Khoán - người có công giúp vua Lê Thái Tổ đánh đuổi giặc Minh thế kỷ 15. Lễ hội đình được tổ chức vào ngày 24 và 25 tháng Giêng.
Trước ngày lễ hội ban tổ chức chọn 22 người già phúc hậu, con cháu thảo hiền, gia đình đoàn kết để xếp vào hàng quan viên cúng tế. Việc viết văn tế là công việc rất quan trọng. Nội dung văn tế cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, mọi người hạnh phúc. Tế xong đem hóa bài văn tế , năm sau viết lại. Trong ngày hội mở diễn ra nhiều trò chơi dân gian đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Trong đó, trò chơi ném còn (ném dúm) thu hút đông đảo người dân tham gia, là dịp mở rộng giao lưu, giao duyên, kết bạn.
Đã trở thành truyền thống đẹp, nhiều người đi làm ăn xa những năm nào cũng tranh thủ về dự hội đình. Người thuộc các dân tộc khác trong huyện, trong tỉnh cũng tới giao lưu văn hóa, thắt chặt mối đoàn kết giữa các dân tộc anh em cùng chung sống trên quê hương Phú Thọ.
Hội chọi trâu Phù Ninh được tổ chức tại huyện Phù Ninh thuộc tỉnh Phú Thọ. Tương truyền rằng khi các tướng của vua Hùng đi săn qua chợ Hàm Rồng, thấy có 2 con hổ đang đánh nhau những người đi săn liền lấy giáo mác đâm chết 2 con hổ rồi đem mổ thịt ăn ngay tại chỗ. Để tưởng nhớ những người đi săn thời các vua Hùng, mỗi năm vào 2 ngày chợ phiên (5-5 và 10-10 âm lịch) là dân trong xã và các làng lân cận lại đem các thứ hàng hóa, sản vật đến kẻ bán, người mua rất nhộn nhịp, nhưng không phải chỉ có họp chợ mà còn dự tế lễ và chọi trâu.
Để chuẩn bị cho lễ chọi trâu bốn làng là: Cão, Phú Mãn, Ngọc Trù, Ngọc Khôi mỗi làng phải chọn mua một con trâu cà (trâu phải đen tuyền), khi mua phải xin âm dương, nếu thánh ứng mới mua. Trâu mua rồi mỗi làng phải cử người làm mo nuôi để đến ngày chợ cho chúng chọi nhau và mổ thịt tế thần. Đến ngày chợ phiên dân làng tắm rửa cho trâu thật sạch sẽ, trước khi vào trận đấu người ta cho trâu uống nửa lít rượu. Phiên chợ ngày 5-5 cho chọi cả 4 con trâu, 2 cặp trâu chọi con nào thua thì mổ thịt, còn 2 con thắng cuộc được giữ lại cho chọi trận chung kết vào phiên chợ ngày 10-10. Khi mổ trâu làm lễ tế thần, người dân chuẩn bị những thứ để đựng thịt trâu (không bầy vào bát đĩa), đó là những cái rế tết bằng dây thừng, đan dầy và nông, trên lòng rế có lót lá chuối. Thịt bày vào những cái rế ấy và đem đặt lên một mô đất vuông bằng phẳng ở ngay giữa chợ để làm lễ cúng thần, trên cái nền này có bày hương án. Khi cúng lễ xong mọi người tập trung ăn uống ngay ở chợ.
Lễ hội chọi trâu ở xã phù Ninh là một lễ hội cổ xưa nhất mang đậm nét văn hóa dân gian của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước với tín ngưỡng gắn biểu tượng con trâu và tục sát sinh vật thiêng để hiến tế thần linh cầu cho “mưa thuận, gió hòa”, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu.
Làng Bạch Hạc xưa kia là Phong Châu, kinh đô nước Văn lang đời Hùng Vương, nay là Phường Bạch Hạc thuộc Thành phố Việt Trì, Phú Thọ. Phường Bạch Hạc hàng năm mở hai kỳ hội Xuân, kỳ đầu từ mồng 3 đến hết mồng 5 tháng giêng, kỳ sau từ mồng 10 đến 13 tháng ba.
Hai kỳ hội Bạch Hạc cũng có các nghi lễ và các trò chơi giống những ngày hội Xuân, Thu khác ở miền Bắc, nhưng đáng chú ý nhất, ở đây có cuộc thi thuyền trên sông Lô và tục cướp cầu.
Tục cướp cầu diễn ra trong thời kỳ hội mồng ba tháng giêng. Đây là một thú vui đặc biệt của dân làng và hàng năm, trong ngày hội, dân chúng các xã lân cận đã kéo nhau tới đây rất đông để xem và đôi khi cũng tham dự cuộc cướp cầu.
Mỗi năm dân làng cử một người may bộ cầu để tung cho dân làng cướp trong dịp hội. Được cử may bộ cầu là một điều vinh dự trong dân xã, thường là hương chức trong làng. Bộ cầu gồm một quả cầu mẹ và tám quả cầu con. Mỗi quả cầu gồm một nắm bông bọc trong vải ngũ sắc có thêu chỉ mầu sặc sỡ. Một sợi chỉ được đính vào quả cầu, một đầu chỉ buộc vào một ngành tre. Mỗi quả cầu đều có dải buông thõng, dải hoặc khâu bằng lụa màu, hoặc kết bằng chỉ sặc sỡ.
Sáng ngày mồng ba Tết, dân làng tới nhà vị Hương chức được chỉ định may cầu để rước bộ cầu ra đình. Đám rước long trọng có cụ Tiên chỉ trong làng cầm hương, các nam nữ thanh niên đi theo, có phường bát âm cử nhạc điểm theo tiếng chiêng trống rất oai nghiêm. Chín mẹ con quả cầu bầy trên long đình do bốn thanh niên khiêng.
Rước tới đình, cả bộ cầu được kính cẩn đặt lên bàn thờ thay cho bộ cầu năm trước. Kế đó là lễ tế cầu. Tế cầu xong là cuộc tung cầu để dân làng và cả dân thiên hạ cùng chen nhau cướp.
Cầu tung từng ba quả một, mỗi lần tung đều do một vị hương chức hoặc một vị bô lão đảm nhiệm.
Đầu tiên là ông Tiên Chỉ, thời Pháp thuộc khi không có ông Tiên Chỉ, do ông niên trưởng trong làng, - tung quả cầu Mẹ và hai quả cầu Con. Vị này trước hết phải đọc một bài văn chúc, đại khái ca tụng phong cảnh của làng, dân phong và nhất là sự linh thiêng của Đức Thành Hoàng đã che chở cho dân được thịnh vượng, làng xã được yên bình. Sau bài văn chúc ba cành tre được giơ cao theo nhịp trống thờ. Khi tiếng trống dứt, dân làng hò reo ầm ĩ. Dứt hồi hò reo, vị Tiên Chỉ lại đọc một bài văn chúc thứ hai cầu cho dân chúng trong xã gặp được mọi sự tốt lành. Tiếp theo bài văn chúc thứ hai lại là một hồi trống và một loạt hò reo ầm ĩ.
Sau đó vị Tiên Chỉ hoặc niên trưởng tháo ba quả cầu buộc ở ngành tre ra, buộc lại với nhau làm một rồi tung lên để dân chúng xô nhau cướp cho đến khi một người nắm chặt được bộ cầu mới dừng.
Sáu quả cầu sau đó do hai vị chức sắc hoặc bô lão khác mỗi người tung ba quả, nhưng lần này, không còn hai bài văn chúc, chỉ có trống đánh nhịp và mọi người hò reo để cướp cầu. Họ tin rằng cướp được quả cầu sẽ gặp may mắn.
Cướp được cầu, dù một quả hay bộ ba quả, có thể đem về nhà làm kỷ niệm, hoặc để thờ tại đình. Thường thường dân làng Bạch Hạc, cướp được cầu, họ vẫn mang tới đình để thờ cho tới năm sau.
Tục cướp cầu, tuy chỉ là một cổ tục cử hành hàng năm theo nghi thức cổ truyền, nhưng đây chính là một cổ tục đề cao tinh thần thượng võ, chứng tỏ người dân Việt Nam luôn luôn sẵn sàng bất khuất nó đã khiến dân tộc Việt Nam được tự chủ với bốn nghìn năm lịch sử.
Cuộc thi thuyền hàng năm làng Bạch Hạc tổ chức vào ngày rã đám trong kỳ hội từ mồng Mười đến Mười Ba tháng ba, tổ chức trên dòng sông Lô để dân xã và khách trẩy hội từ thập phương tới có thể đứng hai bên bờ sông dự xem.
Làng có bốn giáp: Bộ Đầu, Tiểu Hạc, Đông Nam và Thần Chúc. Mỗi giáp có một chiếc trải dài bằng gỗ chò, dài hơn hai chục thước, rộng chừng thước rưỡi, đóng bằng nguyên cả cây gỗ theo chiều dài. Chiếc trải có năm chục bơi chèo ở hai bên; đầu trải uốn thành rồng và đuôi trải cũng lượn khúc như đuôi rồng.
Để dự cuộc bơi trải các giáp đều kén những dân đinh khoẻ mạnh sung vào những tay bơi, mỗi giáp năm chục người cho chiếc trải, nhưng giáp nào cũng kén một số người dự khuyết. Ngoài những tay bơi, mỗi giáp còn phải kén ba người, ba người này thường là các bậc đàn anh trong giáp, một người đứng đầu thuyền cầm cờ hiệu, một người đứng giữa gõ một chiếc trống khẩu để giữ nhịp cho những tay chèo, và ở cuối thuyền, một người ngồi cầm lái. Mỗi bên mạn thuyền là hai mươi lăm tay chèo, đây là những tay trai lực lưỡng đã được hàng giáp lựa chọn, và đã có luyện tập cùng với ba vị đàn anh điều khiển chiếc trải. Trong lúc bơi, họ vừa chèo vừa hò reo. Để có thể kết hợp nhịp nhàng họ phải tập luyện trước cả tháng.
Lúc cuộc thi bắt đầu, bốn chiếc trải xếp hàng đều nhau ở trước cửa đình làng. thật là một cảnh nhộn nhịp cho người xem và cả cho người dự cuộc. Dân giáp nào cũng hồi hộp như chính những tay bơi.
Các chiếc trải khởi hành ở trước cửa đình làng và bơi cho tới ngã ba sông nhánh chảy vào sông lô. Theo lời truyền tụng đây là dân làng diễn lại tích đức Thổ Lệnh đại vương, tiễn đức tản viên khi xưa, lúc đức Tản Viên tới thăm ngài ra về.
Chiếc trải về tới đình trước nhất sẽ được giải thưởng và làm lễ đốt mừng bánh pháo.
Gặp những năm dân làng làm ăn thịnh vượng, mùa màng được, nhân dịp hội tháng ba, dân làng tổ chức cờ người thay cho cờ bỏi, cờ người cũng chơi như cờ bỏi chỉ khác quân cờ thay vì những biển cờ có khắc chữ, là những nam nữ thanh niên mặc quần áo có thêu chữ mang tên những quân cờ, chữ thêu ở trước ngực và ở sau lưng người đóng quân cờ. Cũng có nơi, quân cờ mặc quần áo như thường, nhưng có thêm chiếc biển khắc hoặc viết chữ theo bộ cờ, như vậy mỗi nước đi, nếu quân cờ di chuyển phải mang theo chiếc biển của mình. Tại mỗi vị trí của bàn cờ đều có một chiếc ghế để quân cờ ngồi.
Tại những xã lớn thịnh đạt, những nam nữ đóng quân cờ còn mang theo khí giới, và khi quân bên nọ ăn quân bên kia, quân cờ ăn sẽ múa một thế võ như hạ quân cờ bị ăn, y như trong một màn hát bội.
Ngoài những cổ tục trên, hội còn nhiều trò vui khác như tổ tôm điếm, đáo đĩa v.. v..
Đền mẫu Âu Cơ là nơi thờ Mẹ Âu Cơ được xây dựng từ thời Hậu Lê, nằm trên địa phận xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ ngày nay. Hàng năm, không chỉ người dân trong vùng mà cả du khách thập phương từ nhiều nơi khác cùng hội tụ về đây vui đón Lễ hội Đền mẫu Âu Cơ vào các ngày 7 tháng Giêng là ngày “Tiên giáng”, ngày 11-12 tháng Hai, ngày 12 tháng Ba, ngày 13 tháng Tám, và ngày “Tiên thăng” 25 tháng Chạp. Đặc biệt, ngày 7 tháng Giêng là ngày lễ chính và do trùng vào dịp đầu năm vừa đón Tết Nguyên Đán nên rất đông vui, nhộn nhịp.
Vừa vui đón Tết Nguyên Đán chưa hết thì không khí chuẩn bị vào hội đền Mẫu Âu Cơ đã đến. Cả làng sôi động, tập tế nam, tập tế nữ, tập rước kiệu làm bánh ngọt truyền thống…Bánh được làm bằng bột gạo nếp thơm và mật ngọt, nhào kỹ lăn thành hình tròn dài, sau đó cắt thành từng đoạn như đốt tre và đem đồ chin như đồ xôi. Một trăm bánh ngọt sẽ được coi là lễ vật của một trăm người con dâng lên Mẹ Âu Cơ.
Từ sáng sớm mùng 7 tháng Giêng, trên sân đình xã Hiền Lương cờ xí phấp phới, trống chiêng rộn rã, tất cả dân làng đều đã có mặt với những bộ quần áo đẹp, rực rỡ sắc màu. Mở đầu lễ hội là lễ tế Thành Hoàng ở đình, với đội hình tham gia toàn nam giới, sau đó là rước kiệu từ đình vào đền. Trong tiếng trống, tiếng chiêng, bát âm sáo nhị… ta thấy một cỗ kiệu bát cống sơn son thếp vàng do 8 cô gái mặc đồng phục khiêng nhẹ nhàng, uyển chuyển theo nhịp trống. Đi đầu đám rước là những lá cờ thần, sau kiệu là những vị chức sắc bô lão mặc áo thụng xanh, áo dài khăn xếp, cuối cùng là dòng người dân làng và cả du khách thập phương cười nói vui vẻ đi trảy hội.
Đúng giờ thìn ( từ 7-8 giờ ) đám rước vào đến sân đền. Phường bát âm gồm có đàn, sáo, nhị, trống, phách, sinh tiền…vang lên trong không khí trang nghiêm, đèn nến các loại sáng rực, khói hương nghi ngút. Sau lễ dâng hương và lễ vật gồm 100 bánh ngọt, 100 phẩm oản, hoa quả , thì đến đội tế nữ. Đội tế nữ gồm 12 cô gái thanh tân, có nhan sắc và học vấn. Các cô đều mặc áo dài với các màu vàng, hồng, xanh, tím…rực rỡ, đầu đội khăn kim tuyến, chân đi hài thêu, thắt lưng lụa, trở thành tâm điểm thu hút chú ý của mọi người. Trong đội tế nữ, riêng chủ tế bận trang phục toàn màu đỏ.
Lễ hội diễn ra trong 3 ngày liên tục từ mùng 7-9 tháng Giêng. Sau khi tế nữ xong, nhân dân địa phương và khách thập phương nô nức đến lễ Mẫu Âu Cơ, dâng hương, dâng sớ, cầu sức khỏe, tài lộc, may mắn…Đồng thời, ngoài đền diễn ra các trò chơi dân tộc như đu tiên, cờ người, chọi gà, tổ tôm… đều có treo giải thưởng của Ban Tổ chức lễ hội.
Ngày thứ ba, sau khi tế nữ xong là lễ rước kiệu từ đền trở về đình để kết thúc lẽ hội chào mừng “ Tiên giáng “.
Đối với các ngày lễ khác trong năm tuy không sôi động, nhộn nhịp bằng 3 ngày lễ hội đầu tháng Giêng trên đây nhưng vẫn diễn ra rất trang trọng, thiêng liêng và được nhân dân địa phương cùng đông đảo du khách thập phương từ mọi miền đất nước và cả Việt kiều ở nước ngoài hành hương về lễ tổ Mẫu.
Đền Mẫu Âu Cơ là một di tích lịch sử văn hoá lâu đời, một di sản quý báu của cả nước, có ý nghĩa giáo dục truyền thống lịch sử, truyền thống văn hoá dân tộc cho lớp lớp con cháu muôn đời. Chính vì thế, vào dịp các ngày lễ hội, đặc biệt vào những ngày đầu năm, từ mùng 7-9 tháng Giêng, đến với Tổ Mẫu Âu Cơ đã trở thành tập quán, nét đẹp văn hóa của các thế hệ người Việt Nam. Đến với Tổ Mẫu Âu Cơ vào dịp này cũng như đến với các vị vua Hùng vào dịp giỗ Tổ mùng 10 tháng Ba hàng năm chính là sự biết ơn tổ tiên, hướng về cội nguồn dân tộc, là tình cảm, đạo lý “ Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây “. Đó cũng là nguồn sức mạnh để dòng giống Lạc Hồng quyết tâm đoàn kết bảo vệ giang sơn của tổ tiên để lại, xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh hiện đại hơn, nhưng vẫn bảo tồn và tiếp tục phát huy hơn nữa những nét đẹp đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Theo truyền thuyết dân gian vùng đất tổ Phú Thọ, nghệ thuật hát xoan có từ thời các vua Hùng dựng nước nước (hơn 2000 năm trước Công nguyên). Người ta tổ chức hát xoan không chỉ để vui chơi, chúc tụng các vua Hùng mà còn để cầu mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, ca ngợi cảnh vật thiên nhiên, mô tả lao động, sinh hoạt ở nông thôn...
Tập "truyền thuyết Hùng Vương" đã ghi sự tích của hát xoan như sau: "Vợ vua Hùng mang thai đã lâu, tới ngày sanh nở, đau bụng mãi mà không sanh được. Có một người hầu tâu với vua Hùng về nàng Quế Hoa xinh đẹp, múa hát rất hay, nên đón nàng về múa hát có thể làm cho đỡ đau và sinh nở được. Vợ vua Hùng nghe lời, cho mời nàng Quế Hoa đến. Quế Hoa vâng theo lời triệu, đến chầu vua Hùng. Bấy giờ vợ vua Hùng đang lên cơn đau dữ dội, mới bảo nàng Quế Hoa đứng trước giường múa hát. Quế Hoa vâng lời miệng hát, tay múa, đi qua, đi lại trước giường. Giọng hát trong vắt , khi cao, khi thấp như chim ca, suối chảy, tay uốn chân đưa, người mềm như tơ, dẻo như bún ai cũng say mê. Vợ vua Hùng mải nghe hát, xem múa không thấy đau nữa, hạ sanh được ba người con trai khôi ngô dẹp đẽ. Vua Hùng vui mừng khôn xiết và hết lời khen ngợi Quế Hoa, mới bảo nàng dạy múa hát cho các mỵ nương. Quế Hoa hát chầu vợ vua Hùng vào đầu mùa xuân nên các mỵ nương gọi lối hát ấy là hát xoan".
Từ đó điệu hát Xoan được truyền rộng rãi với dân chúng, nhất là nam nữ thanh niên trong vùng và được tổ chức thành phường hát. Hàng năm vào mùa xuân, các phường xoan Phù Đức, Kim Đôi, An Thái, Thét thuộc Phù Ninh thường tổ chức hát ở cửa đình những ngày hội đám hết hội đám lại chia nhau đi hát ở các địa phương trong và ngoài tỉnh. Người đứng đầu một phường Xoan (hay họ Xoan) là một ông trùm. Ông trùm là một người có kinh nghiệm về nghề nghiệp xã giao và viết chữ để hát dẫn một số bài dài được chép bằng văn tự. Mỗi phường Xoan thường có từ 15 đến 18 người hoặc đông hơn. Trừ trùm phường, các thành viên khác thường là trai gái tuổi 16-18. Nam gọi là kép, nữ gọi là đào, số đào thường đông hơn số kép. Trước mùa hội hè họ tổ chức tập luyện bài bản. Mùa hội họ đi tứ xứ hát có khi đôi ba tháng mới về.
Ngày nay, hát Xoan chỉ thấy phổ biến ở vùng đất Tổ diễn ra vào mùa xuân, sau Tết Nguyên Đán. Mỗi phường Xoan giữ hát ở một số cửa đình nhất định. Tục giữ cửa đình cũng có ý nghĩa là tránh sự tranh chấp và dẫm chân nhau giữa các phường xoan. Từ tục này đã dẫn đến tục kết nghĩa họ xoan và người địa phương của đình sở tại. Tình nghĩa ấy rất được coi trọng. Và mỗi phường Xoan hay còn gọi là họ xoan phải có một ông trùm, bốn năm kép và từ mười đến mười lăm đào.
Hát xoan là di sản văn hoá vô giá của người dân vùng đất Tổ - tỉnh Phú Thọ. Nhằm gìn giữ và phát huy loại hình nghệ thuật này, các phường xoan ở đây đã không ngừng đào tạo, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ để những ngày hội làng, ngày lễ Tết của dân tộc, còn những làn điệu hát xoan mượt mà, thắm đượm tình quê, góp phần làm phong phú, đa dạng thêm kho tàng văn hoá dân gian Việt Nam.
Hội làng Dị Nậu được tổ chức từ ngày 04/01 đến 06/01 Âm lịch tại xã Dị Nậu có tên tục là Kẻ Núc, thuộc huyện Tam Thanh, tỉnh Phú Thọ, nay là xã Dị Nậu, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Hội tổ chức nhằm suy tôn Tản Viên, Cao Sơn, Quí Minh.
Trong phần lễ hội có trò đánh quân đấu gậy tượng trưng chia thành hai cánh quân làng Trong và làng Ngoài chỉ giả vờ đánh nhau không gây xô xát.
Bên cạnh đó cũng có diễn các trò trình nghề gồm các vai: giáo đầu, cày, bừa, cô thợ cấy, thợ gặt,....và trong lễ hội này còn có tục cướp kén mang tính chất phồn thực.
Trước ngày vào tiệc, làng cho chôn hai cây tre ở hai bên sân đình. Trên mỗi cây treo 30 bộ kén, mỗi bộ kén gồm 1 chiếc mo cau rạch thủng ở giữa và xỏ vào đó một chày ngấn bằng gỗ vuông, tước xơ một đầu. Sáng sớm, cụ Từ ra mở cửa đình thắp hương cáo thánh để các giáp mang cỗ tế ra đình.
Đến giờ Ngọ khoảng 12 giờ trưa khi mọi người đã đông đủ, lễ tế xong, ông chủ tế đọc to về sự tích thần thánh và lời giáo đầu của tục lễ. Sau hồi chiêng trống, mọi người ùa vào chen lấn nhau cướp kén, cầu mong cho một năm an khang thịnh vượng.
Hội làng Đào Xá được tổ chức vào ngày 9/7 âm lịch, tại Xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy, nhằm suy tôn Hùng Hải Công và Tam vị Đại vương - có công giúp dân trị thủy, Quế Hoa công chúa.
Làng cổ Đào Xá thuộc xã Đào Xá, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ. Làng nằm ở phía bờ Tây sông Đà. Vào ngày 29 tháng 1 năm 1964, cụ Hồ đã ghé thăm làng. Tương truyền, đây là khu vực xảy ra giao tranh giữa Sơn Tinh và Thuỷ Tinh.
Trong làng có một ngôi đình được gọi là đình làng Đào Xá. Đình gồm 7 gian có niên đại cuối thế kỷ XVII với những cột lớn hơn vòng tay ôm có nhiểu mảng chạm khắc đẹp, tinh xảo, thờ Hoàng Hải công và tam vị đại vương.
Ngoài ra, làng cũng có chùa Đào Xá. Ngôi chùa nằm ở ngoại thôn có những pho tượng Phật đẹp hài hoà. Hằng năm làng Đào Xá, tổ chức hơn 10 lễ hội.
Tổ chức vào ngày mồng 3 tết Nguyên đán, diễn lại sự tích nàng Quế Hoa làm trò mua vui cho bà Trang (phu nhân đức thành hoàng Hùng Hải đại vương) trong thời kỳ thai nghén. Theo truyền thống, thì đến giờ động thổ, thủ từ xin quẻ âm dương, nếu được, thì mở cửa đền, giáp đăng cai tế lễ năm đó nổi 3 hồi trống cho dân làng hay, sau đó là tiếng reo hò dậy làng và dâng thành hoàng làng 12 cỗ tế.
Xong lễ, giáp đăng cai được rước lồng bánh “trâu rước” là một con trâu làm bằng bột nếp đen (gọi là nếp dìn) với lượng chừng 6 đấu gạo nếp, tất cả là 2 con: con phủ giấy vàng, con phủ giấy bạc, trên mỗi con khắc hai chữ Hán “xuân ngưu” (trâu xuân). Hai lồng bánh cũng có 2 bát nước, một bát đựng một quả trứng, còn bát kia đựng một cái “gầu giai” đan bằng tre phết giấy theo loại hình linh khí, tế khí. Chủ tế lễ xong, 1 lồng trâu đưa cho một trai của giáp đăng cai, còn lồng trâu kia trao cho bà đồng. Hai người nâng lồng trâu lên múa đối diện nhau trước bàn thờ, chủ tế vẩy nước lên hai người múa. Điệu múa truyền thống này được gọi là múa xuân ngưu.
Nghi lễ được tổ chức vào ngày 27 tháng Giêng. Sau các nghi thức cần thiết và soạn sửa xong đồ thờ, chủ tế đọc văn tế, quan viên và trai đinh giáp đăng cai và các giáp trong làng rước kiệu, rước văn từ đình làng vào đình thờ. Từ trong đền, cụ thủ từ rước bài vị ra sân và làm lễ tắm bài vị (gọi là lễ một dục) trong một bể nước nhỏ trước sân đền thờ, sau đó bài vị, thần sắc được rước về đình làng trong những nghi lễ truyền thống.
Tương truyền Lý Bôn xưa đóng quân ở Đào Xá, vào một đêm có hai chiếc thuyền rồng nổi lên ở đoạn này, trên thuyền có người xưng là Thuỷ thần đến âm phù cho ông đánh giặc.Trên đoạn sông này, Lý Thường Kiệt đã đi qua, khi vào Đào Xá làm lễ thần linh đọc thơ thần, một dị bản của bài thơ Nam quốc sơn hà Nam đế cư quen thuộc.Tiếng thơ vừa dứt, Lý Thường Kiệt thấy muôn vàn binh thuyền rầm rập trên sông, ngờ rằng thuyền quân địch, nhưng đó là thuyền âm binh phù hộ danh tướng. Sau chiến thắng quân Tống, Lý Thường Kiệt tâu vua cho lập đền thờ thẩn ở Đào Xá. Hằng năm dân làng Đào Xá, tổ chức hội đua thuyền vào ngày lễ thành hoàng để kỷ niệm cuộc hội ngộ giữa danh tướng với thần linh.
Lễ vật cúng dâng thành hoàng có: 3 nải chuối, 3 bát bánh trôi không nhân, 3 con cá chép, tượng trưng cho tam vị đại vương và giấc mộng của Trang phu nhân báo về. Sau ngà̀y 28, giáp đăng cai tiến cúng thành hoàng 4 cỗ thờ, mỗi cỗ là 4 đồng chè kho, 4 đồng bánh mật, chuối, phật thủ, thanh yên, cam, quýt, trầu cau và 1 con gà trống luộc. Cỗ để qua đêm, ngày 29, bốn giáp mổ lợn và tế lễ như ngày mồng 3 tháng Giêng. Ngày 30, các giáp lại biện trầu cau, chủ tế lại xin tiếp thành hoàng phù hộ cho dân làng. Trong những ngày lễ, nhiều hội vui được tổ chức trang nghiêm và theo truyền thống lâu đời. Chẳng hạn: như trò múa voi, thổi cơm thi....
Lễ cầu tháng Bảy
Vào sáng ngày mồng 9, sau lễ yết cáo thành hoàng làng, với cỗ bàn như tế ngày mồng ba tháng Giêng, không có đánh trống, cuộc thi bơi trải giữ hai giáp Đông, Bắc và hai giáp Tây, Nam bắt đầu. Trải của hai giáp đầu gọi là “trải đực” và trải của hai giáp sau gọi là “trải cái”. Mỗi trải gồm 24 người bơi, 1 người gõ mõ, 1 người lái và 1 người đầu trải, tất cả đều áo đỏ cọc tay và đóng khố. Hai trải đua tài trong đầm nước trước cửa đền. Trong cuộc đua, bơi hai thuyền, một thuyền đực, đầu hình chim và một thuyền cái, đầu hình cá (bơi thành cặp). Vốn xưa là dòng sông nối liền từ sông Hồng vào sông Đà, gọi là sông Cổ, nay đã cạn.
Cinet tổng hợp
Lễ hội rước chúa gái thường được tổ chức vào ngày 7- 8 tháng giêng, tại thị trấn Hùng Sơn, huyện Lâm Thao. Rước chúa gái là một lễ hội được mọi người tôn trọng và sùng bái.
Chuyện kể rằng, do mang lễ vật đến trước Thủy Tinh, Sơn Tinh được đón Ngọc Hoa về làm vợ. Lễ rước dâu được tổ chức theo phong tục dân tộc và nghi lễ trọng thể, từ nhà cô dâu ra Đình Cả để dân làng làm lễ tạ. Tạ xong cô dâu được đưa lên kiệu rước qua làng Triệu Phú để đưa về núi Tản theo đường sông Hồng. Đến cây hương đầu làng, vì thương cha nhớ mẹ cô dâu không đi nữa, dân làng phải làm lễ tế Thành hoàng tại cây hương. Tế xong họ làm trò diễn theo các tích: Lấy tiếng hú, tế lợn và chạy địch, tế sóc và trình voi ngựa, chạy tùng dí, lễ hạ điền và các trò bách nghệ khôi hài… để vui lòng công chúa và nàng ưng thuận tiếp tục đi về nhà chồng.
Thời phong kiến tự chủ, ngoài những nghi lễ cầu tế hàng năm ở các Đền trên núi Nghĩa Lĩnh và trong ngôi đình Cả, nhân dân 2 làng Vi - Trẹo còn tổ chức lễ Rước Chúa Gái và diễn trình theo các tích xưa. Thường đến ngày 25 tháng chạp hàng năm, cả 2 thôn đều cử ông Từ lên làm lễ mở cửa Đền nhưng thôn nào có đền thôn ấy cúng. Sau khi làm lễ trên núi xong, cả 2 thôn về đình Cả bàn nhau ngày cầu cúng và bàn nhau mở hội Rước Chúa Gái.
Nếu nhất trí là năm đó rước Chúa Gái thì cả 2 thôn cùng về dự kiến chọn Chúa Gái, sau đó tiến hành chọn cử Chúa Gái. Tiêu chuẩn đơn giản nhưng phải chọn lựa kỹ càng, đó là người con gái xinh đẹp, chưa có chồng, tuổi từ 18 đến 25, gia đình phong quang (không có tang chế), con nhà có chức sắc. Gia đình có con là Chúa Gái phải xếp dọn nhà cửa thành nơi thờ kính, may sắm quần áo đẹp, đồ nữ trang cho con. Trước ngày rước 1 tuần, nhà chúa Gái được dân làng trang trí, treo đèn, kết hoa, lập bàn thờ, chăng vải đỏ tựa nhà lầu công chúa Ngọc Hoa – Tiên Dung thờ ở Đền Giếng. Chúa Gái từ chiều 30 tháng chạp đến ngày 7 tháng giêng không được đi ra ngoài, mọi nhu cầu ăn uống, sinh hoạt đều do các nữ tỳ - cũng là những cô gái chưa chồng, xinh đẹp, nhà không có tang - phục vụ.
Ngày rước Chúa Gái cũng chính là ngày hội làng He. Chúa Gái đi có cờ dong trống mở, cùng rước kiệu với chúa gái có kiệu văn rước sắc và kiệu bát cống rước cổ vật. Nghi trượng là nghi thức rước trọng thể, có đủ các loại cờ, trống, chiêng, tàn, tán, lọng, bát biểu, voi, ngựa gỗ, kiếm gươm, giáo mác… Trong đám rước có phường Đồng văn hóa trang làm nhiều trò như: Câu cá, múa, trình nghề. Khi kiệu Chúa Gái đến gần Đình Cả thì có thêm 2 voi, 4 ngựa (đều làm bằng giấy phát; xương bằng tre nứa; có đủ yên cương và to như voi, ngựa thật) chờ sẵn cùng đi.
Sau khi tế lễ Thành hoàng, dân làng diễn nhiều trò vui như: Săn lợn, chạy địch, chạy tùng dí và diễn trò bách nghệ khôi hài…để công chúa không buồn bã nữa mà vui lòng lên kiệu về với chồng trên núi Tản sông Đà. Lễ hội với không khí vui tươi, không chỉ thu hút nhân dân 2 làng Vi - Trẹo mà còn thu hút đông đảo khách thập phương trong và ngoài huyện tới dự hội. Chính vì vậy mới có câu rằng:
“Vui nhất là hội Chùa Thầy
Vui thì vui thật, không tầy hội He”
Lễ hội đền Năng Yên diễn ra vào ngày 7 tháng giêng hàng năm, tại xã Năng Yên, huyện Thanh Ba. Lễ hội tổ chức nhằm tưởng nhớ công đức của Tam Vị Đại Vương và cầu xin Tam Công ban cho mưa thuận gió hòa, cho muôn nhà được hạnh phúc.
Đền Năng Yên được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa. Nơi đây thờ Tam Vị Đại Vương: Cả Ngọ Cao Sơn, Nhị Ngọ Cao Sơn, Út Ngọ Cao Sơn những tướng lĩnh tài ba xuất chúng đã có công giúp vua Hùng Vương thứ 17 tức vua Hùng Nghị Vương đánh tan giặc Thục, dẹp hổ lang và trấn giữ vùng đất này ngay từ thủa bình minh của dân tộc.
Đền được xây dựng vào thời Hậu Lê và tu sửa vào thời Nguyễn, song vẫn giữ được kiến trúc gỗ hoàn chỉnh, kiến trúc được tạo tác hoàn hảo, với một số tiêu bản nghệ thuật điêu khắc gỗ cổ dân gian độc đáo hòa đồng với không gian đẹp, thoáng, vươn tỏa tràn đầy sinh lực giữa không gian rộng lớn của núi rừng Năng Yên. Với thủ pháp nghệ thuật tạo hình các nghệ nhân xưa đã để lại các tác phẩm điêu khắc, trang trí với đề tài Nho giáo hết sức phong phú. Toàn bộ các mảng nghệ thuật để lại ấn tượng độc đáo có kiến trúc gỗ cổ mới phô hết tài năng của cha ông từ thế kỷ trước. Đây là những giá trị tinh thần văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc.
Đền Năng Yên có mặt bằng khá rộng khi đi qua cổng đền phía bên tay phải là Đền Giếng thờ Mẫu Mẹ người đã có công sinh ra Tam Vị Đại Vương, đi thẳng vào là Đền chính thờ Tam Vị Đại Vương và bên cạnh là đền thờ các quan đã bảo vệ các vị. Phía bên trên là Đền Thượng đang được xây dựng, nơi đây ba vi đã hóa về trời. Bên cạnh đền thờ về phía tay trái là khu đất rộng được dùng để tổ chức các trò chơi dân gian trong dịp lễ hội.
Ngôi đền còn giữ được nhiều di vật quý như: Sắc phong, Ngọc phả, Ngai thờ… những bức thư tịch là minh chứng ghi tạc công đức của Tam Vị Đại Vương mà nhân dân Năng Yên phụng thờ, tôn kính, lưu truyền đến đời nay.
Cứ vào dịp mùng 7 tháng giêng hàng năm, dân làng Năng Yên lại mở hội cầu tế để tưởng nhớ công đức của Tam Vị Đại Vương và cầu xin Tam Công ban cho mưa thuận gió hòa, cho muôn nhà được hạnh phúc.
Lễ hội gồm hai phần:
Phần lễ gồm: lễ rước kiệu được tiến hành từ nhà ông từ để sắc phong đến Đền chính. Lễ rước mẫu gồm các thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp được tuyển chọn trong làng. Tiếp đó là lễ túc yết và lễ tế thần do các cụ cao tuổi trong làng đảm nhiệm, lễ hội còn phục dựng lại phần lễ rước nước và lễ tẩy trần.
Phần hội với các trò chơi dân gian như: Cờ người, nhún đu, bóng chuyền, chọi gà…
Đền Năng Yên là nơi vô cùng linh thiêng, dành cho những ai có tâm linh hướng Phật. Hàng năm cứ ngoài rằm tháng giêng rất nhiều người ở gần xa đến Đền để thắp hương xin giải hạn cho mình có một năm tràn đầy sức khỏe, cả gia đình tai qua nạn khỏi, an khang thịnh vượng. Những cặp vợ chồng mới cưới muốn có con theo ý muốn đến Đền để xin được cầu đinh (sinh con trai). Mỗi dịp đầu xuân hàng nghìn du khách ở khắp mọi nơi về Đền để thành tâm công đức.
Lễ hội Đền Hùng là một lễ hội lớn mang tính quốc gia để tưởng nhớ các vua Hùng đã có công dựng nước. Phong tục giỗ tổ Hùng Vương đã trở thành truyền thống văn hoá lâu đời ở nước ta. Đó là ngày hội toàn quốc, toàn dân và trong tâm thức dân gian Việt Nam nó mang tính thiêng liêng cao cả nhất. Vì thế mà lễ hội được tổ chức long trọng hàng năm với nghi thức đại lễ quốc gia, với sự hành hương “trở về cội nguồn dân tộc” của hàng chực vạn người từ khắp các nơi trong nước và kiều bào sống ở nước ngoài.. Hội đền Hùng kéo dài từ mùng 8 đến ngày 11 tháng 3 âm lịch, trong đó mùng 10 là chính hội. Lễ hội diễn ra tại đền Hùng, Phú Thọ.
Cũng như mọi lễ hội khác ở đồng bằng Bắc Bộ, ở lễ hội đền Hùng gồm có 2 phần : Phần lễ và phần hội.
Phần tế lễ được cử hành rất trọng thể mang tính quốc lễ. Lễ vật dâng cúng là “lễ tam sinh" (1 lợn, 1 dê và 1 bò), bánh chưng, bánh dày và xôi nhiều màu, nhạc khí là trống đồng cổ. Sau khi một hồi trống đồng vang lên, các vị chức sắc vào tế lễ dưới sự điều khiển của chủ lễ. Tiếp theo đến các cụ bô lão của làng xã sở tại quanh đền Hùng vào tế lễ. Sau cùng là nhân dân và du khách hành hương vào tế lễ trong các đền thờ, tưởng niệm các vua Hùng.
Sau phần lễ là đến phần hội. Ở lễ hội đền Hùng năm nào cũng tổ chức cuộc thi kiệu của các làng xung quanh. Với sự xuất hiện của các đám rước linh đình mà không khí lễ hội trở nên tưng bừng náo nhiệt hơn. Các cỗ kiệu của các làng phải tập trung trước vài ngày thì mới kịp cuộc thi. Nếu như cỗ kiệu nào đoạt giải nhất của kỳ thi năm nay, thì đến kỳ hội sang năm được thay mặt các cỗ kiệu còn lại, rước lên đền Thượng để triều đình cử hành quốc lễ. Vì vậy, cỗ kiệu nào đoạt giải nhất thì đó là niềm tự hào và vinh dự lớn lao của dân làng ấy. Bởi họ cho rằng, đã được các vua Hùng cùng các vị thần linh phù hộ cho nhiều may mắn, nhân khang, vật thịnh... Tuy nhiên, để có được đám rước các cỗ kiệu đẹp lộng lẫy phải chuẩn bị rất công phu và chu đáo từ trước. Những khó khăn vất vả của dân làng đã thôi thúc họ vượt qua được để đến với cái linh thiêng cao thượng và hướng về Tổ tiên giống nòi. Đó là đời sống tâm linh của dân chúng, được biểu hiện rõ nét qua một hình thức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng dân gian cổ truyền mang tính cộng cảm với cộng mệnh sâu sắc. Sinh hoạt văn hóa dân gian này đã thành nhu cầu không thể thiếu được đối với các cộng đồng làng xã cư trú quanh đền Hùng.
Mỗi một đám rước kiệu có 3 cỗ kiệu đi liền nhau. Chúng đều được sơn son thiếp vàng, chạm trổ rất tinh xảo. Sự bày biện trang trí trên cỗ kiệu cũng rất khéo léo và đẹp mắt. Cỗ kiệu đi đầu bày hương hoa, đèn nhang, trầu cau, chóe nước và bầu rượu. Cỗ kiệu thứ 2 có đặt hương án, bài vị của Thánh, có lọng và quạt cho với nhiều sắc màu trang hoàng tôn nghiêm. Cỗ thứ 3 rước bánh chưng và bánh dày, 1 cái thủ lợn luộc để nguyên, đi sau 3 cỗ kiệu này là các vị quan chức và bô lão trong làng. Các vị chức sắc thì mặc áo thụng theo kiểu các bá quan triều đình, còn các cụ bô lão cũng mặc áo thụng đỏ, hoặc mặc quần trắng, áo the, đầu đội khăn xếp. Trong hội đền Hùng, nhân ngày giỗ Tổ có tiến hành nghi lễ hát thờ (tục gọi là hát Xoan). Đây là một lễ thức rất quan trọng và độc đáo. Dân gian truyền rằng hát Xoan xưa kia gọi là hát Xuân và điệu múa hát Xoan có từ thời Hùng Vương và được lưu truyền rộng rãi trong dân cư của các làng xã quanh vùng. Điệu múa hát Xoan này được nhiều người ưa thích, đặc biệt là bà Lan Xuân, vợ của vua Lý Thần Tông. Bà đã cảm nhận được âm hưởng dân ca đặc biệt và độc đáo của nó, nên bà đã cho sưu tầm và cải biên thành điệu hát thờ tại một số đền, đình làng thờ các vua Hùng.
Mở đầu, ông trùm phường Xoan Kim Đức - phường nổi tiếng - cùng chủ tế đứng trước hương án hát chúc bằng bài khấn nguyện. Sau đó là một kép trẻ đeo trống nhỏ trước ngực ra làm trò giáo trống, giáo pháo. Tiếp theo, bốn cô đao ra hát thơ nhang và dâng hương bằng giọng hát lề lối. Rồi đến những bài ca ngợi thánh thần kết thúc phần nghi lễ của Xoan.
Ở đền Hạ có hát ca trù (gọi là hát nhà tơ, hát ả đào) Đây cũng là loại hát thờ trước cửa đinh, mừng dâng thành trong dịp hội làng, do phường hát Do Nghĩa trình diễn.
Ngoài sân đền Hạ, ở nơi thoáng đãng có đu tiên. Mỗi bàn đu có hai cô tiên (cô gái Mường trẻ mặc đẹp) ngồi. Đu quay được là do các cô luân phiên lấy chân đạp đất. Đu tiên là trò chơi đẹp mắt, nhịp nhàng của phụ nữ. Xung quanh khu vực dưới chân núi Hùng là các trò diễn và trò chơi dân gian cổ truyền, diễn ra rất sôi động, được nhiều người tham dự như trò chơi ném côn, chơi đu, đầu vật, chọi gà,... Những trò đánh cờ người và tổ tôm điếm được các cụ cao niên tâm đắc. Còn các đám trai gái tụm năm, tụm ba trên các đồi đó trổ tài hát ví, hát trống quân hoặc hát đối đáp giao duyên…Tối đến có tổ chức hát chèo, hát tuồng ở các bãi rộng ngay cửa đền Hạ hoặc đền Giếng…
Lễ hội Đền Hùng là phong tục đẹp trong truyền thống của người dân đất Việt. Và từ rất lâu đời trong tâm thức dân gian, vùng đất Tổ đã trở thành "Thánh địa linh thiêng” của cả nước, nơi phát nguyên nguồn gốc dân tộc. Trải qua bao thời đại lịch sử tuy có lúc thịnh, lúc suy nhưng lễ hội đền Hùng vẫn được tổ chức. Điều này đã thể hiện rõ bản lĩnh phi thường và nền văn hiến rực rỡ, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Người dân hành hương về đất Tổ không hề có sự phân biệt tôn giáo, chỉ cần là người Việt Nam thì trong tâm khảm họ đều có quyền tự hào là con cháu muôn đời của vua Hùng. Bởi vậy, hễ ai là người Việt Nam nếu có sẵn tâm thành và lòng ham muốn hành hương về đất Tổ thì tự mình có thể thực hiện ước nguyện chính đáng đó một cách dễ dàng và thuận tiện.
Hội đền Hùng hay giỗ tổ Hùng Vương là ngày hội quần tụ, ca ngợi sự hưng thịnh của nòi giống, là biểu tượng của tinh thần cộng đồng. Người đến hội mang theo lòng ngưỡng mộ sâu đậm về quê cha đất tổ, một tín ngưỡng đã ăn sâu vào tâm thức người Việt Nam cho dù họ sống ở bất cứ phương trời nào.
Lễ hội vật trâu giằng búa diễn ra vào sáng mồng 2 tết hàng năm ở thôn Bến Bây, xã Chí Chủ xưa (nay là xã Chí Tiên, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ). Làng Chí Chủ trước đây có 3 thôn, mỗi thôn thờ một ông thành hoàng, đều có sắc phong của các triều đại phong kiến xưa. Hiện nay, đình làng không còn nữa, chỉ còn lại 7 sắc phong của triều Nguyễn và sắc phong vị thành hoàng Đào tướng quân của vua Minh Mạng (1820 - 1840). Lễ hội giằng búa là để nhớ lại tục lệ luyện và khao quân của Đào tướng quân thuở xưa.
Tương truyền, Đào tướng quân là vị tướng to cao lẫm liệt, sức khỏe phi thường, đa mưu, nhiều kế, vào trận tả xung hữu đột, trí dũng thông minh, phi thường. Sau các trận đánh thắng, tướng quân thường khao quân, cho quân lính giằng búa đập đầu trâu rồi giết mổ, đồng thời ban thưởng cho ai giằng được búa. Nhân dân thôn Bến Bây tâm niệm: Đào tướng quân là vị thần rất linh thiêng.
Để có ngày hội này, cả dân làng phải chuẩn bị rất công phu với những quy định chặt chẽ, trước hết, là việc đi tậu trâu, chăm sóc trâu. Khi ấy, Thôn Bến Bây sẽ chia làm bốn dâu, người cao tuổi nhất trong thôn được đứng dâu nhất. Dâu nhất năm ấy được đăng cai cho mọi việc lễ hội trong năm, từ việc mua giữ trâu cho đến mua sắm mọi lễ vật tính từ rằm tháng chạp năm trước đến sáng ngày mồng hai tết Nguyên Đán là ngày cầu chính. Trâu được tậu về nhà ông "đăng cai" đúng vào ngày rằm tháng chạp. Gia đình ông "đăng cai" làm ván lễ, lễ thành hoàng và cầu mong cùng gia đình trông nom, gìn giữ trâu thờ được mạnh khỏe, béo tốt. Cúng lễ xong, ông đăng cai nổi chiêng, trống báo cho dân làng đến chiêm ngưỡng trâu thờ. Hàng ngày, theo thứ tự đã được định trước, các gia đình lần lượt cắt cỏ, lấy rơm sạch, nước uống và tắm rửa cho trâu bóng nhẫy, ngày này qua ngày khác cho đến sáng mồng hai tết.
Dắt trâu ra đình thờ làm lễ cúng thành hoàng gồm có 8 người trai tráng tuổi từ 18 đến 30, gia đình không có tang ma, bản thân không có khuyết tật, có đạo đức phẩm chất tốt. Họ không chỉ là trai trẻ, khoẻ mạnh mà hình thể phải nở nang, cân đối, trông như một dũng sĩ. Họ phải được kiêng kỵ sạch sẽ từ những ngày trước, không được nói năng khiếm nhã, tròng ghẹo phụ nữ. Sáng ngày mồng hai tết, mặc dù có những năm vào ngày mưa rét lạnh, 8 trai tráng này vẫn phải tắm rửa sạch sẽ tại giếng của làng. Những trai này phải cởi trần, mặc quần dài trắng sắn ống thật cao, chân đất, đầu đội khăn xanh bỏ mối - sau gáy lưng thắt bao xanh có mối bỏ bên phải. Để chống rét, họ phải xoa các bắp thịt cho nhau, vỗ ngực, làm những động tác cho người hồng hào, có người phải uống nước mắm để chống rét. Họ tập trung ở nhà ông đăng cai để ăn bánh lọc. Ông đăng cai đã chuẩn bị hai mâm sà có sơn son thiếp vàng. Một mâm để ván thờ gồm có xôi nếp trắng, một con gà thiến chín, một mâm rượu, một bát nước, đĩa trầu cau, hương nhang, đèn nến, có người cầm tàn che. Một mâm đựng trầu cau do các gia đình trong thôn góp lại và cũng có người cầm tàn che. Mọi việc chuẩn bị xong, ông chủ tế mặc áo thụng xanh, quần dài trắng chỉnh tề vào xin đem trâu ra đình làm lễ.
Từ nhà đăng cai, đoàn người dắt trâu ra đình, người đi đầu tiên là người đứng tuổi, cao đẹp thuộc dâu nhất, cầm đóm bằng những cây cỏng (cây chít) được chẻ làm đôi, bỏ ruột, bóc bẹ nhẵn nhụi, đã được chuẩn bị từ trước. Người thứ hai thuộc dâu hai cầm gươm. Người thứ ba thuộc dâu ba cầm búa thờ - búa có cán dài 70cm, người đi thứ tư thuộc dâu tư cầm trống khẩu - trống có hai mặt bằng da, đường kính mặt trống 30cm, tang trống làm bằng gỗ mít, sơn son vẽ rồng, tất cả những người này đều ăn mặc thống nhất - khăn đội đầu bằng vải đen bỏ mối phía sau, áo the mặc ngoài áo dài trắng, ngoài cùng là áo nỉ đỏ có rồng chầu, hổ phục, thắt lưng xanh bỏ mối phía phải, quần trắng, chân đất. Tiếp theo là vị chủ tế, rồi đến ông đăng cai, tiếp theo nữa là người đội các mâm cỗ thờ, các quan viên mặc quần áo chỉnh tề và cuối cùng là 8 người dắt trâu chia thành 2 bên, mỗi bên là bốn thanh niên đối diện nhau. Đi đầu cầm chạc trâu là hai thanh niên dâu tử. Khi ra khỏi nhà đăng cai, tất cả hàng ngũ được chấn chỉnh lại thành một hàng dọc thẳng tắp với quần áo đủ mầu. Đến cửa giữa đại bát, người cầm đóm đạp mạnh vào cửa đình, cửa mở toang ra, các cửa khác được trai tráng trực sẵn nhấc ra xếp gọn vào một chỗ. Người cầm đóm đi tiếp vào hậu cung, cửa cung đình được mở hết, các mâm thờ được đặt lên sập thờ. Các công việc chuẩn bị cho lễ cầu đã xong, các quan viên vào chiếu tế. Đoàn dắt trâu đứng nghiêm trang giữa sân đình, dân làng vây quanh, đông chật hai bên tả mạc. Tất cả chờ tế xong sẽ dắt trâu ra bãi vật.
Cuộc tế lễ bắt đầu, ông chủ tế vào tế, các quan viên cũng lễ theo, sau đó lần lượt bốn người cầm đóm, gươm, búa, trống vào lễ, cuối cùng là 8 trai tráng dắt trâu thay nhau vào lễ. Sau khi lễ xong, ông chủ tế cầm bát rượu từ trong hậu cung ra, dừng bước trước đầu trâu khấn vái rồi đổ rượu vào đầu trâu. 8 người được lệnh dắt trâu ra bãi vật. Người ta dùng hai thòng lọng to cho trâu bước vào tròng rồi cùng nhau hô to vật đổ trâu.
Có 1 tráng sĩ trong số 8 người này được cử vào lĩnh búa thờ tại cung đình. Lễ tạ thành hoàng xong, ông chủ tế trao búa thờ, người lĩnh búa chạy một mạch ra bãi vật. Ra giữa bãi vật, búa được tung lên cao, thế là hội giằng búa bắt đầu. Một cuộc giằng co, dượt đuổi, trèo kéo, tiếng trống, với tiếng hò reo cổ vũ của người dân vang lên từng hồi. Sau một hồi lâu giằng búa, ban tổ chức nổi chiêng chấm dứt cuộc chơi này và cho mổ trâu để sắm cỗ thờ vào sáng ngày mồng ba tết.
Đền Du Yến xã Chí Tiên huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ lđược công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc Gia năm 1993. Đền thờ nữ tướng Hạnh Nương- một tướng giỏi thời Hai Bà Trưng. Đền được xây dựng tại địa điểm bà mở yến tiệc khao quân, ban thưởng cho dân làng khi về thăm quê, ngày khao quân đúng vào ngày rằm tháng giêng. Cũng từ đó cứ dịp vào rằng tháng giêng là dân làng mở hội cầu tế để nhớ ơn công đức của bà cầu cho mưa thuận gió hòa, cho nhà nhà được mọi điều tốt lành.
Hội đền Du Yến được mở với các phần lễ và hội rất long trọng. Những đồ thờ dâng Mẫu chủ yếu là các loại bánh chay và hoa quả... được chia thành 6 giáp, mỗi giáp 2 mâm, được 2 thanh niên khiêng vào đặt lên ban thờ để các cụ cầu tế. Trong lúc cầu tế có xen lẫn những điệu múa tiên, múa sinh tiền. Tương truyền rằng vào ngày Mẫu ra đời ngoài bãi dâu Thao Giang có tiên sa giáng trần múa hát như ngày hội nên ngày tế Mẫu bắt buộc phải có đội múa tiên bao gồm 4 cô gái dưới 16 tuổi, chưa có chồng múa những điệu múa bay bổng đẹp như tiên phục vụ tế lễ. Sau đó đến phần rước kiệu, đi đầu là đội cờ, tiếp đến là phường bát âm, sau đến đội bát biểu, múa sư tử, tiếp đến là múa tiên rồi đến kiệu.
Phần tế lễ hội đền Du Yến kéo dài hết ngày rằm. Tuy vậy khách hành hương từ khắp mọi nơi về viếng đền quanh năm nhưng đông nhất vẫn là dịp từ Tết Nguyên đán đến hết tháng ba.
Làng Hương Nha nằm ở huyện Tam Nông, Phú Thọ, cách Đền Hùng chưa đầy 10km về phía tây nam. Lễ cầu trâu được tổ chức vào ngày mồng 2 tháng giêng âm lịch hằng năm để tưởng nhớ công đức tướng Xuân Nương dưới thời Hai Bà Trưng. Sinh thời bà là người tài sắc vẹn toàn, thùy mị, nết na, tinh thông võ nghệ, viết chữ, tính toán đều giỏi, lại có đức độ. Cha mẹ mất sớm, anh trai bị Tô Định sát hại, trong lòng căm giận, nàng nguyện báo thù nhà. Bà cắt tóc giả làm ni cô đi đến các phủ, huyện để chiêu tập binh hùng tướng mạnh. Hai Bà Trưng nghe tiếng Xuân Nương bèn truyền hịch nghênh đón về, lại cho nàng thống lĩnh quân Nội thị nữ tốt bên tả.
Lễ cầu trâu để nhớ câu chuyện xưa nhân dân đã dâng trâu để Bà khao quân tướng khi thắng trận trở về. Từ 20 tháng Chạp, dân làng đã họp bàn để chọn mua trâu. Trâu phải là trâu đực béo khỏe. Người được nhận nuôi trâu gọi là "chứa lềnh", nhất thiết phải ăn chay từ khi rước trâu về. Lán của trâu phải làm bằng các vật liệu mới, mỗi buổi chiều, "chứa lềnh" phải đem trâu ra bến tắm, sau đó tắm cho mình. Đến 7 giờ tối ngày 2 tháng Giêng, nhà "chứa lềnh" phải làm một cỗ gà và một cỗ chay gồm: củ mài, mía ngọt, chè lam, chè kho, hoa quả và một hũ rượu mộng. Tối đến, dân làng đến nhà "chứa lềnh" rước trâu ra đền Hạ (còn gọi là Miếu Ông) nơi thờ thập bộ thần quan là những tướng sĩ khi nghe tin bà mất đã nhảy xuống hồ trẫm mình để chứng tỏ lòng trung nghĩa. Trước khi làm lễ cầu trâu, người ta đốt bên cạnh cột buộc trâu hai bó đuốc bằng nứa khô. Sau đó, nhà sát trói trâu vào cọc bằng dây tre, rồi làm lễ mật khẩn xin âm dương. Khi trâu ngã gục và chết, người dân đem lột da, chôn 4 cọc rồi căng da trâu làm "nồi da nấu thịt", tái hiện cảnh mổ trâu khao quân của nữ tướng Xuân Nương khi xưa. Người ta còn cắt 12 miếng thịt ngon ở bắp làm 12 quả đài xinh để tế thần. Sáng mồng 3 âm lịch, người dân tổ chức lễ "chạy chài". Lễ gồm có thịt và lòng trâu đặt trên mâm tre. Sau đó nhà sát đội ra bến Giếnh, trên đường về người dân thi nhau tranh cướp lễ vật. Ai cướp được lễ vật thì năm đó làm ăn phát đạt, con cháu thuận hòa, gặp nhiều may mắn.
Hội Phết Hiền Quan là lễ hội dân gian được tổ chức ngày 12 - 13 tháng Giêng tại xã Hiền Quan huyện Tam Nông (Phú Thọ),Lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ và tôn vinh công lao của nữ tướng Thiều Hoa công chúa - Đức Thánh Mẫu Đại Vương, người giúp Hai Bà Trưng đánh giặc cứu nước..
Tương truyền năm 16 tuổi Thiều Hoa đến tu tại chùa Phúc Thánh- Hiền Quan. Nghe tin Trưng Trắc dấy binh khởi nghĩa, Thiều hoa tập hợp được đội quân 500 người, hàng ngày luyện tập võ nghệ, chơi trò đánh phết, phóng lao, rồi về Hát Môn tụ nghĩa. đứng dưới cờ của Hai Bà Trưng, được Trưng Trắc phong làm “Đông cung tướng quân” lĩnh ấn tiên phong về Luy Lâu đánh Tô Định.
Bình xong giặc, vua Trưng phong thưởng các tướng, Thiều Hoa không nhận quân chức ở triều, xin được về bản xã. Trưng Vương ban cho xã Song Quan (Hiền Quan ngày nay) làm thực ấp. Một năm sau Thiều Hoa mất, nhân dân lập miếu thờ và Trưng Vương ban cho sắc phong là “Phụ quốc công chúa”. Ngày 12-13 tháng giêng, nhân dân trong vùng tổ chức Hội Phết để tưởng nhớ công đức của bà.
Lễ Hội phết Hiền Quan gồm bốn phần đó là: Rước kiệu, tế lễ, kéo quân, đánh Phết. Lễ rước kiệu được tiến hành từ chiều ngày 12 tháng giêng. Trên kiệu là các sắc phong, bài vị, quả Phết, quả Chúi được cất giữ trong cung cấm của Đình làng từ ngày mồng 10 tháng 10 âm lịch. Kiệu được khiêng từ Đình ra Đền do các binh sĩ mình mặc áo giáp hộ tống. Sau lễ rước kiệu là phần tế lễ. Tham gia tế lễ là ông Tiên Chỉ và các bậc trưởng lão trong làng. Người đọc văn tế là ông bàn thượng, nội dung các bản văn tế được viết trong các sắc phong. Lễ “Khẩn tấu” do ông Tiên Chỉ đọc mong cuộc sống an bình cho mọi người sau đó là lễ dâng xôi gà, bánh chưng, bánh dày lên các bậc Thánh hiền. Sau ba tuần rượu tế là đến lễ kéo quân. Trước lễ kéo quân, đoàn binh sĩ cùng chầu trước cửa Đền để nghe chỉ dụ sau đó chia hai ngả miệng hô vang cả một góc trời.
Lễ kéo quân được chia thành hai đoàn, mỗi đoàn có từ 100 đến 200 người tham gia. Đi đầu mỗi đoàn là ông trưởng lão râu tóc bạc phơ, mình quấn khố vàng, đầu chít khăn đỏ tay cầm cờ nheo miệng hô vang, biểu thị sự oai phong của đoàn quân, tiếp đó là đội trống cái, trống con gõ theo nhịp phách. Đoàn binh sĩ nam có, nữ có mình mặc áo giáp vàng, đầu đội nón lá, chân quấn xà cạp đeo dày mũi hài tay cầm long đao cờ xuý. Khi đoàn quân gặp nhau thì binh sĩ tha hồ tranh cướp cờ, long đao. Đoàn nào cướp được nhiều coi như đoàn đó thắng rồi lại về chầu trước sân đền để nhận chỉ. Cứ như vậy, lễ kéo quân được diễn đi diễn lại ba vòng rồi lại tề tựu giữa sân Đền cùng hò reo vui mừng chiến thắng. Lễ kéo quân kết thúc cũng là lúc bắt đầu lễ ném Phết.
Lễ ném Phết hay còn gọi là hò Phết diễn ra tại một địa điểm đã được quy định trước. Trong lúc hai đoàn làm lễ kéo quân thì tại đền thờ vẫn diễn ra các tuần cúng bái. Các lão bàn thượng khẩn dụ khi nào đủ ba tuần rượu thì cũng là lúc hai cánh quân kéo về tới sân Đền. Không gian lễ hội huyên náo và sôi động hẳn lên. Ông Tiên Chỉ “con cả vua” thay mặt muôn dân đọc bài hò Phết sau đó ra bãi ném cho muôn dân tranh cướp. Mỗi Hội Phết thường chỉ ném 3 quả Chúi, 6 quả Phết. Tục truyền, nếu chẳng may ai đó bị quả Phết, quả Chúi rơi vào đầu thì chỉ cần đưa vào cung cấm của Đền cầu cúng là tai qua nạn khỏi, còn ai đó may mắn cướp được quả Phết, quả Chúi thì năm đó họ và gia đình cùng thôn xóm gặp được sự may mắn. Chính bởi điều thần bí này mà mỗi khi ông Tiên Chỉ mang quả Phết, quả Chúi ra là có hàng trăm, hàng ngàn người xô vào tranh cướp, đến lúc quả phết được ai đó cướp được chạy ra khỏi bãi ném Phết mà không có ai đuổi theo thì Quả Phết tiếp theo lại được ném ra. Nói về quả Phết, quả Chúi: Quả Phết và quả Chúi thường được làm từ gốc tre già hoặc gỗ thành ngạnh khô. Quả Chúi nhỏ hơn, đường kính từ 4-5cm, quả Phết đường kính từ 6-7cm. Hàng năm để chuẩn bị cho Hội Phết, Ban bàn thượng phân công cho một xóm lo đủ 3 quả Chúi và 6 quả Phết. Quả Phết, quả Chúi được đẽo tròn, sơn son thiếp vàng chờ đến ngày mồng mười tháng mười âm lịch thắp hương tại bàn thờ tổ tiên sau đó đem ra Đình giao cho làng. Ban bàn thượng làm lễ cúng tế sau đó cất giữ tại Hậu cung Đình làng chờ đến ngày 11 tháng giêng rước ra Đền để cầu cúng rồi giao cho ông Tiên Chỉ ( là người được tôn là con trưởng bà Thiệu Hoa)
Ngoài phần cướp Phết, lễ hội con tổ chưc các cuộc thi dân gian như nấu cơm , làm bánh dầy, nhưng phần cướp phết là phần vui nhất và cũng quyết liệt nhất
Việc tổ chức lễ hội Phết Hiền Quan hàng năm để nhân dân ôn lại truyền thống đấu tranh giữ nước, dựng nước của dân tộc và thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.