Lễ hội diễn ra vào ngày mồng 6 tháng Giêng hàng năm tại Đến Sóc, xã Phù Linh, Sóc Sơn , Hà Nội. Lễ hội nhằm tưởng nhớ và ngợi ca người anh hùng đó có công đánh đuổi giặc Ân dưới thời Hùng Vương dựng nước.
Tại đền Thượng, hội được bắt đầu vào giờ đầu tiên cuả ngày mồng 6 với kê khai quang và lễ tắm tượng do chủ tế và chức sắc thực hiện.
Kế tiếp đó, hai lễ chính là rước dâng hoa tre và lễ chém tướng được tổ chức. Hoa tre được làm bằng một thanh tre dẹt, kích thước khoảng 50cm x 50cm, đầu thanh tre vót xơ bông dài khoảng 10cm x 10cm nhuộm các màu, chủ yếu là màu vàng. Sau phần lễ dâng hoa tre lên Thánh, quan tế hô lớn “lễ tất tranh lộc" thì tất cả hoa tre được vung ra để mọi người tranh cướp cầu may.
Sau lễ rước dâng hoa tre là lễ chém tướng với trò diện tích Thánh Gióng dùng tre ngà làm vũ khí giết giặc. Theo truyền thuyết, Thánh Gióng phi ngựa từ Châu Cầu, đuổi giặc Ân tới đó thì dùng tre ngà đập chết viên tướng đầu sỏ là Thạch Linh cùng tả tướng và hữu tướng của hắn.
Ngoài ra, rước voi của làng Dược Thượng cũng là nghi lễ không thể thiếu trong ngày hội này. Lễ rước voi được thực hiện bởi 12 thanh niên khỏe mạnh, vừa đi vừa đánh trống, vừa hò reo vang dậy một vùng. Tương truyền rằng: Sau khi đánh tan giặc Ân, Thánh Gióng đã cho tất cả binh sĩ trở về quê hương làm ăn, sinh sống, đồng thời ra lệnh thả hết voi và ngựa chiến về rừng. Nhưng vì thiếu hiểu biết nên nhân dân thôn Dược Thượng ngày ấy đã bắt giữ một con voi chiến. Biết là sai lầm, từ đó đến nay, người dân trong thôn đan một con voi bằng tre Đằng ngà, rước lên Đền Sóc trong ngày khai hội để trả lễ Ngài.
Lễ hội đền Sóc gắn liền với truyền thuyết lịch sử nhưng bên cạnh đó, vẫn mang đậm tính chất của hội cầu mùa theo tín ngưởng dân gian phổ biến ở hầu hết hội xuân vùng trung du Bắc Bộ.
Lễ hội Cổ Loa được tổ chức hàng nănm bắt đầu từ ngày mồng 6 đến 16 tháng giêng. Hội được tổ chức nhân ngày kỷ niệm Thục Phán nhập cung.Tuy phải làm chứng cho một câu chuyện buồn về sự mất cảnh giác để nước rơi vào tay giặc, song trải qua thời gian, thành Cổ Loa vẫn luôn mãi là niềm tự hào của người Việt Nam về lịch sử chống ngoại xâm.
Làng Cổ Loa gồm 12 xóm nhưng hội Cổ Loa là của chung một cụm tám làng (ngày trước gọi là Bát Xã) gồm: Ðài Bi, Sàn Dã, Cầu Cả, Mạch Tràng, Văn Thượng, Thư Cưu, Cổ Loa, Xép. Cả 8 làng này đều thờ Thục Phán nên đều tham gia tổ chức hội.
Sáng ngày mồng 6 làng tổ chức lễ rước văn tế từ nhà vị tiên chỉ ra đền để tế thần. Theo thông lệ, văn tế soạn thảo được đặt lên giá, khi 12 ông trưởng xóm đến đông đủ cả thì bắt đầu sửa lễ. Mở đầu là năm lá cờ ngũ hành, tiếp đó đến phường bát âm giá văn tế đặt trong kiệu long đình có lọng che. Nối tiếp là quan viên trong làng và các vị kỳ mục đi theo.
Ngoài sân đền, cờ hội, cờ đuôi nheo cắm thẳng hàng từ đường xóm vào tận sân đền Giữa sân là cột cờ lớn, phía trên phấp phới lá cờ đại. Sát cửa đền, hai bên là đôi ngựa hồng, ngựa bạch đầy đủ yên cương sặc sỡ.Tiếp ra phía ngoài là đồ lễ bộ và bát bưu. Khoảng giữa sân là kiệu của 12 xóm. Trước cửa đền,hương án lớn bày bộ ngũ sự bằng đồng và các lễ vật cùng hộp kính đựng đôi hia màu vàng. Bên cạnh còn có một hương án nhỏ, phía trên bày một chiếc đỉnh và đôi hạc đồng cùng chiếc nỏ, bó tên và một thanh kiếm. Nỏ này được sơn son thếp vàng là biểu trưng của nỏ thần xưa.
Khi một hồi tù và rúc lên báo hiệu đám rước văn đã tới, long đình được kính cẩn khiêng đến đặt phía trước hương án. Lúc này phường bát âm nổi nhạc, tiếng tù và hân hoan đón chào. Cuộc tế lễ bắt đâu, kéo dài tới quá giờ Ngọ. Trong lúc quan viên, kỳ mục lần lượt làm lễ tế trước bàn thờ, dân chúng quỳ làm lễ theo thì ở nội tự, một số kỳ mục được cử ra tiến hành đại diện cho xóm làng cầu nguyện nhà vua phù hộ cuộc sống yên bình, thịnh vượng.
Buổi chiều, đám rước thần có đông đảo dân làng tham gia. Thứ tự các cuộc rước bao gồm cờ quạt, long đình, tự khí, bát bửu, phường bát âm, quan viên lễ phục chỉnh tề bưng theo khí giới của nhà vua cùng tuần hành trong vài giờ từ sân đền Cổ Loa ra đến đầu làng thì giải tán.
Còn phần hội thì kéo dài tới rằm tháng giêng bằng nhiều trò vui. Tối ở đình làng có đốt pháo hoa, hát ca trù, hát tuồng. Ban ngày, các cụ ông chơi bài, đánh cờ. Các cụ bà đi lễ đình lễ chùa. Thanh thiếu niên nam nữ có trò chơi: đánh đu, đấu vật, kéo co, leo dây, bắn cung nỏ, cờ người, thổi cơm thi, chọi gà, đánh đáo mẹt...
Trong những ngày hội Cổ Loa, nhân dân quanh vùng cùng khách thập phương đến xem thật đông, coi đây là dịp vui xuân có ý nghĩa.
Làng Lệ Mật thuộc xã Việt Hưng, huỵện Gia Lâm- Hà Nội, hàng năm mở hội làng vào ngày 23/3 âm lịch, tưởng nhớ Hoàng Đức Trung, người có công trong việc đưa người nghèo từ làng Lệ Mật tới vùng kinh đô khẩn hoang, lập ra 13 trại ở tây thành Thăng Long (quận Ba Đình ngày nay). Ông đã được dân làng suy tôn là Thành Hoàng cùa làng.
Từ sáng sớm ngày 23/3 đại diện con cháu của 13 trại phía Tây thành Thăng Long xưa đội 13 mâm lễ vật mang từ kinh đô về đình làng Lệ Mật để dự hội.
Phần lễ của hội bao gồm: lễ rước nước từ giếng làng, rước cá chép vào đình Thánh, Rước cỗ (lễ vật) của 13 trại ở quận Ba Đình về làng dâng thần.
Phần hội đặc sắc nhất là trò múa rắn. Con rắn (được làm bằng nan tre lợp vải) tượng trưng cho loài thuỷ quái đã bị chàng trai họ Hoàng dùng sức mạnh và ý chí của mình hạ gục. Nhạc múa là dàn bát âm và tiếng trống nhịp đôi kết hợp dồn dập, náo nức.
Bên cạnh đó thì tiết mục thi nấu ăn món đặc sản cũng dành được sự quan tâm của rất nhiều người. rất nhiều món được trổ tài như : "tam xà đại hội" (3 loại rắn là rắn hổ mang, cạp nong, rắn ráo), "ngũ hổ chầu lâm" (cỗ 5 con ếch) và "lý ngư vọng nguyệt" (cỗ cá chép to, cỗ gỏi)…
Hội làng Lệ Mật là cơ hội để hàng năm con cháu trong làng (gọi là dân cựu quán) và con cháu đi xa khai hoang bên kinh đô (gọi là dân kinh quán) gặp gỡ nhau ôn lại trang sử dựng làng đầy gian nan thử thách từ xa xưa, cùng chung niềm vui và lòng biết ơn đối với tổ tiên.
Làng gốm Bát Tràng là một làng cổ nằm ở bờ bắc sông Hồng, nay thuộc xã Bát Tràng huyện Gia Lâm. Hàng năm lễ hội làng Bát Tràng được tổ chức vào dịp Rằm tháng Hai âm lịch. Nhằm ý nghĩa tôn vinh nghề gốm truyền thống và nhắc nhở con cháu nhớ về cội nguồn, cũng là dịp dân làng dâng lễ lên thần hoàng cầu xin thánh hiền cho dân giàu, xã văn minh, làng xóm bình an.
Phần tế lễ theo phong tục truyền thống và lễ rước nước, tắm bài vị, rước bài vị ra đình được thực hiện hết sức trang trọng.
Lễ dâng thành hoàng là một con trâu tơ béo, thui vàng, đặt cả con lên chiếc bàn lớn, kèm theo sáu mâm cỗ và bốn mâm xôi. Sau khi lễ xong, phẩm vật được hạ xuống chia đều cho các họ cùng hưởng.
Phần hội có nhiều trò diễn, độc đáo nhất là trò chơi cờ người và hát thờ. Theo lệ, trước hội, làng chọn lấy 2 bà tướng cờ là những người phẩm hạnh, giàu có nhất trong làng. Mỗi bà tướng nhận 16 thiếu nữ tuổi từ 10 đến 15 xinh đẹp, nết na nuôi ăn uống và may cho áo quần thật đẹp. Các cô được rèn tập làm quân cờ trong một tháng mới được ra biểu diễn thi đấu ở sân đình.
Công việc chuẩn bị cho hát thờ cũng công phu không kém. Làng tổ chức 3 chầu thi và 4 chầu cầm để chọn bài và người vào hát thờ, sau đó mời các đội đàn hát ở các làng xung quanh đến tập để kén giọng. Đội nào vượt lên nhất qua “4 chầu cầm” sẽ được hát thờ trong lễ hội năm đó.
Bên cạnh những nét văn hoá truyền thống hội làng Bát Tràng cũng là dịp quảng bá giới thiệu sản phẩm Gốm Bát Tràng thông qua du khách. Vì vậy đến với hội du khách còn được chiêm ngưỡng những sản phẩm gốm tính tế được làm bởi những bàn tay tài hoa của nghệ nhân nơi đây.
Đền Trèm thuộc xã Thuỵ Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Đây chính là nơi thờ Lý Ông Trọng- một con người tài năng, đức độ, với dân làng Thuỵ Phương ông vẫn tồn tại như một phúc thần bảo hộ cho dân làng, tượng ông cùng phu nhân được thờ phối hưởng trong đền và tôn kính gọi là Đức ông, Đức Bà. Hằng năm hội đền Trèm mở 3 ngày (từ 14-16/4) để tưởng niệm ông
Mở đầu là lễ rước nước sáng sớm ngày 15. Nước được lấy ở giữa dòng sông để phục vụ cho lễ tắm tượng. Sau đó là lễ rước văn (rước bài văn tế từ nhà người trưởng văn ra đình), cuối cùng là lễ tụng kinh cầu siêu do thầy chùa phụ trách tiến hành trong đêm Rằm.
Khi các nghi lễ tiến hành xong cũng là thời điểm dân làng và khách thập phương chung vui không khí hội hè: thả chim bồ câu, chèo thuyền, đánh cờ, đấu vật... Trong đó hấp dẫn nhất vẫn là hội thi thả chim và chèo thuyền. Với sự tham dự của nhiều chủ chim có khi tới dăm chục thậm chí hàng trăm đàn chim chờ đợi mở lồng tung cánh, đua tài cao thấp trong ngày hội càng làm cho không khí hội đền Trèm thêm náo nhiệt.
Từ những nghi thức và tập tục: rước nước, tắm tượng, chèo thuyền, thả chim... là hình ảnh mờ nhạt của các lễ nghi nông nghiệp xa xưa, qua đắp đổi của thời gian và các dòng văn hoá cho đến nay chỉ còn hiện diện như một thú chơi tao nhã và tinh thần thượng võ. Tất cả tạo nên sự hấp dẫn riêng của một làng quê nông nghiệp ven đô.
Thôn Viên, xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm (Hà Nội) có chùa Anh Linh và đền Chúa là hai di tích kiến trúc văn hóa nghệ thuật gắn liền với sự kiện lịch sử đời Trần chống giặc Nguyên Mông, đồng thời gắn với quá trình chiêu dân, lập ấp thành làng Việt Cổ ở xã Cổ Nhuế với công lao sự nghiệp của công chúa Túc Trinh con gái vua Trần Thánh Tông. Hàng năm đền mở hội vào ngày 30 đến ngày 1/8 âm lịch kỷ niệm ngày giỗ công chúa Túc Trinh.
Tương truyền, sau chiến thắng quân Nguyên lần thứ nhất (năm Mậu Ngọ 1258), để phát triển sản xuất làm cho dân ấm no, quốc gia hưng thịnh, Vua Trần đã xuống chiếu cho các vương hầu, công chúa chiêu tập dân phiêu tán để khai khẩn đất hoang, mở rộng vùng ven kinh thành Thăng Long. Theo chiếu chỉ, công chúa Túc Trinh, con gái Vua Trần Thánh Tông (1240 -1290), đã rời cung điện ra vùng phía tây bắc kinh thành Thăng Long. Công chúa bỏ tiền bạc phát chẩn, cấp vốn cho dân nghèo dựng nhà, vỡ đất cấy trồng làm ăn sinh sống, thành làng, thành xóm. Sau khi lập làng Cổ Nhuế Viên, công chúa Túc Trinh đến làng An Nội, xã Liên Mạc, huyện Từ Liêm để làm tiếp việc ân đức.
Sau này, ngày giỗ công chúa Túc Trinh được tổ chức ở cả hai làng An Hội và Cổ Nhuế. Đêm 30/7 âm lịch hàng năm, làm lễ mở cửa đền. Vào giờ Tý ngày mồng 1/8 âm lịch hàng năm, làm lễ mộc dục và cúng thức. Lễ mộc dục do một vị bô lão trong làng đảm nhiệm, trang phục chỉnh tề, đầu đội khăn xếp, quần trùng, áo dài, chân đi hài vân sảo, tất cả đều màu đỏ. Vị bô lão thay mặt cho cả dân làng làm việc ân đức với Chúa nên hết sức tuân thủ các điều kiêng kỵ: ăn chay một tháng, không ngủ chung với phụ nữ... Nước làm lễ mộc dục phải là nước mưa tinh khiết nấu với ngũ vị hương. Người nấu nước ngũ vị là đàn bà và cũng phải tuân thủ các điều kiêng cữ như vị bô lão. Trước khi làm lễ, vị bô lão rửa tay gọi là quán tẩy, vẩy nước hoa vào người, xoa lên mặt, đầu và hai tay, gọi là tẩy uế.
Sau khi mộc dục cho Chúa Bà, các đồ mã cũ đem đốt, dâng đồ mới. Y phục cũ của Chúa Bà được người ta tranh nhau lấy phần đem về để ở bàn thờ tổ tiên với ý nghĩa: có phép mầu nhiệm của Chúa Bà, gia đình sẽ làm ăn hưng thịnh, tránh mọi điều xấu hoặc se thành sợi buộc vào cổ tay, chân hay đeo ở cổ cho trẻ con đi đêm không sợ ma quỷ, đêm ngủ không giật mình. Các bà già cũng lấy một miếng vải áo của Chúa Bà khâu ở vạt áo hoặc buộc vào tràng hạt để cầu mong sau này chết được Chúa Bà giúp sức chầu về cảnh tây phương cực lạc.
Lễ mộc dục xong là đến lễ cúng thức, ông chủ tế đọc chúc văn, nội dung ca ngợi công đức của công chúa Túc Trinh đối với dân làng Cổ Nhuế từ xưa tới nay, cầu xin hồng ân của trời đất, phật, thánh, Chúa Bà ban phúc lành cho quốc thái, dân an.
Sáng ngày mùng 1/8 âm lịch, cúng phật tại chùa Anh Linh, sau đó về đền Chúa làm lễ khai quang, yên vị xin Chúa cúng giỗ. Ngày giỗ Chúa gọi là cúng đối kỵ, có dâng lục cúng: hương, hoa, trà, quả, đăng, thực. Lễ cúng thực gồm có: Cơm tẻ nấu bằng gạo lật, muối vừng, trám đen muối, giá luộc, tương, canh đậu xanh; sau nghi lễ cúng thực dâng chè kho, chè lam và kẹo lạc.
Trong ngày giỗ Chúa, dân hai làng Cổ Nhuế và An Nội phải tuân thủ theo lệ: Không rước tượng Chúa đi viễn du, không đốt pháo từ ngày 25/7 - 2/8 âm lịch. Ngày giỗ Chúa toàn dân làm cỗ chay, ăn chay. Những sản vật trong từng nhà sản xuất được đem dâng lễ tại đền như: mít, dừa, lựu, chuối, na, cam, mía, khoai luộc... Ngoài ra, các gia đình, ngõ xóm nằm trên trục đường xã Cổ Nhuế - Chèm đều sắm hoa quả, vàng, hương, đèn nến, oản, phẩm, đặt lên một chiếc bàn con kê ngoài rìa đường, dâng lên đức Chúa Bà, cầu xin Chúa ban phúc cho gia đình, làng xóm khỏe mạnh, làm ăn hưng thịnh, vạn vật sinh sôi, nảy nở. Đêm ngày giỗ Chúa, tại đền có tổ chức hát chèo, diễn tuồng, múa lân, múa rồng, đọc và bình thơ rất sôi nổi.
Đình Nam Đồng nằm trên đường Nguyễn Lương Bằng thuộc phường Nam Đồng, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Đình thờ Thái uý Lý Thường Kiệt, người anh hùng dân tộc vào thế kỷ 11. Sau trận đánh Như Nguyệt 1076, ông được vua ban về đóng quân ở trại Nam Đồng. Ông đưa dân đến đây để lập trại, chỉ bảo cách làm ăn cho hưởng rất nhiều quyền lợi để khai hoang sinh sống. Sau khi ông mất, Vua Lý Nhân Tông cho lập đền thờ ở nhiều nơi để đời đời thờ phụng. Ông được nhân dân Nam Đồng tôn là Thành hoàng làng, tương truyền mộ ông còn ở đất làng Nam Đồng. Để tưởng nhớ công đức của ông đình Nam Đồng đều tổ chức lễ vào 17 tháng 2 âm lịch là ngày sinh và 2 tháng 6 âm lịch là ngày mất của Ông. Lễ chính vẫn được diễn ra hàng năm vào ngày 17 tháng 2 âm lịch.
Lễ hội đình Nam Đồng được tổ chức trong 2 ngày được dân làng và các làng trong vùng đến dự rất đông.
Chương trình lễ hội diễn ra như sau:
Ngày 16/2: Buổi sáng, bắt đầu với tiết mục tế lễ do đội nam tế của các cụ ông trong làng thực hiện, sau đó dân làng vào lễ Thánh. Buổi chiều, biểu diễn ca nhạc văn nghệ, các trò chơi dân gian
Ngày 17/2: Buổi sáng, làm lễ đọc thần phả của đình với sự có mặt của dân làng, khách thập phương, sau đó là các dòng họ và cá nhân của làng vào dâng lễ Thánh. Tiếp theo là lễ dâng hương của đội tế nam rồi đến lễ tế của đội tế nữ. Sau lễ tế, dành cho khách thập phương vào dâng hương và lễ Thánh. Đến trưa mời khách thập phương và dân làng vào thụ lộc Thánh.
Buổi chiều, tiếp tục đón nhân dân vào lễ Thánh, sau đó là những tiết mục văn nghệ và các trò chơi. Đến xế chiều các cụ ông trong trang phục tế lễ làm lễ giã hội.
Đình Ứng Thiên là một ngôi đình cổ nằm bên bờ bắc dòng sông Tô Lịch thuộc phường Láng Hạ, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội. Đình được xây dựng trong khoảng năm 1069 – 1072 vào thời vua Lý Thánh Tông, thờ vị Nữ Thần đã có công giúp vua đánh thắng quân Chiêm là Hậu Thổ Phu Nhân. Đến thời vua Trần Anh Tông được phong là Nguyên – Trung rồi Ứng Thiên Hóa Dục. Qua các triều Lê, Tây Sơn và Nguyễn đều có sắc phong là Thượng Đẳng Tối Linh Thần. Hội đình hàng năm được tổ chức trong 3 ngày từ ngày mồng 6 đến mồng 8 tháng 3 âm lịch để tưởng nhớ đến công lao vị Nữ Thần này. Tham gia hội gồm nhân dân trong phường và có mời rất nhiều các phường khác .
Từ sáng sớm ngày mồng 6/3 những người được chọn lựa đã làm lễ Mộc dục, bao sái tượng. Đúng 8h sáng chương trình tế lễ bắt đầu do các cụ ông có uy tín trong phường đảm nhiệm trong trang phục lễ hội truyền thống. Tiếp theo là các dòng họ trong phường, các đoàn đại biểu các nơi vào dâng hương lễ Đức Địa Mẫu. Sau đó là các đoàn dâng hương của phường Láng Hạ.
Từ chiều 6/3 và cả ngày 7/3 là màn dâng hương lễ Thánh do các cụ bà hành lễ của nhiều đoàn từ các nơi về dự lễ hội.
Ngày 8/2: Buổi sáng, đoàn tế nam Láng Thượng vào làm lễ tế Thánh, sau đó các cụ ông trong đội tế lễ của đình vào làm lễ tạ Thánh.
Buổi chiều, lễ hội tiếp tục diễn ra với các tiết mục văn nghệ và vui chơi. Lễ giã hội được diễn ra vào lúc xế chiều.
Đan xen với ngày lễ Thánh của nhân dân trong vùng và khách thập phương là những tiết mục văn nghệ và trò chơi dân gian truyền thống như hát quan họ, diễn chèo, thi đấu cờ, chọi gà…
Đình Bái Ân thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Đình được xây dựng vào thời vua Lý Nhân Tông thờ ba vị Thành hoàng làng là Chiêu ứng Vũ Đại Vương Uy Linh Phúc Thần, Chiêu Điều Đại Vương và Thuận Chính công chúa. Lễ hội đình làng Bái Ân được tổ chức hàng năm trong 2 ngày mồng 9 và mồng 10 tháng 2 âm lịch để tôn vinh công đức của ba vị thành hoàng làng có công với làng xã.
Sáng ngày mồng 9, đội ngũ các cụ có uy tín trong làng được chọn, trong trang phục lễ hội truyền thống vào lễ cáo với các vị Thành hoàng làng về công việc trong làng và mong các vị phù hộ cho con cháu sống khỏe mạnh, nhân đức và làm ăn thuận lợi. Sau đó là lễ rước kiệu quanh làng được thực hiện bởi nam thanh nữ tú và dân làng. Buổi chiều là những tiết mục văn nghệ và các trò chơi của làng.
Mồng 10 là ngày hội chính được bắt đầu bằng màn tế lễ nam và tế lễ nữ của các bậc cao niên được lựa chọn trong làng. Tiếp theo là lễ dâng hương của đại diện các làng khác được mời tham dự lễ hội và bà con trong làng. Chiều, lễ hội được diễn ra với các màn ca hát dân gian các trò chơi như chọi gà, đánh cờ.
Kết thúc lễ hội là màn lễ tạ của các cụ bô lão trong làng vào lúc xế chiều.
Đình làng Kim Giang nằm ở đường Kim Giang gần đền và chùa, trong cụm di tích lịch sử đình, đền và chùa Kim Giang. Đình thờ Thành hoàng hiệu là Mạo Giáp Hoa.Lễ hội đình làng Kim Giang được nhân dân trong vùng tổ chức hàng năm trong 2 ngày 11 và 12 tháng 2 âm lịch để tôn vinh công đức Ngài và Thân mẫu Ngài.
Chương trình lễ hội được diễn ra như sau:
Sáng ngày 11/2, lễ khai mạc được diễn ra sau một hồi trống tưng bừng của đội trống trong làng. Sau đó là lễ tế nhập tịch tại đình và đền do các cụ bô lão trong làng với trang phục truyền thống vào lễ cáo xin phép với Thành hoàng làng. Buổi chiều được tiếp tục với các hoạt động vui chơi dân gian truyền thống như chọi gà, chơi cờ tướng, đánh đu. Buổi tối có biểu diễn ca múa nhạc tại sân đình làng Kim Giang.
Ngày 12/2 ngày hội chính được bắt đầu bằng lễ rước bảng sắc phong từ nhà sắc về đình, đền. Đi đầu đoàn rước là đội múa rồng do thanh niên làng đảm nhiệm sau đó là các cháu thiếu nhi rước ảnh Bác Hồ, tiếp là đội tế lễ nam và nữ. Đội múa sinh tiền được các cháu thiếu nhi biểu diễn suốt cả đoạn đường rước kiệu mang lại không khí vui vẻ nhí nhảnh hồn nhiên của trẻ thơ. Bảng sắc phong đi cùng đoàn rước kiệu do hội phụ nữ làng đảm nhiệm, sau cùng là đội lễ của nhân dân trong làng và ngoài làng cùng tham gia lễ hội.
Chương trình được tiếp tục với màn đội tế nam, tế nữ làm lễ dâng hương và đọc chúc văn tế Thánh lễ Mẫu tại đình, đền. Sau đó dân làng và du khách cùng hưởng lộc thánh.
Buổi chiều được tiếp tục với các tiết mục hoạt động vui chơi trao giải thưởng cho các trò chơi đạt giải tại sân đền.
Lễ tạ Thánh và tổng kết lễ hội được các cụ bô lão và dân làng tham gia tiến hành vào lúc xế chiều.
Lễ hội làng Kim Giang được tổ chức hàng năm góp phần giáo dục các con cháu trong làng không quên truyền thống giữ nước của cha ông và góp phần nâng cao tình đoàn kết của nhân dân trong và ngoài làng.
Đình Huỳnh Cung thuộc xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội. Đình thờ Hồng Bác đại vương và Uy Mang đại vương là hai con của Vua Hùng đời thứ 17. Theo thần phả để lại cả hai Ông đều tinh thông võ nghệ sức khỏe hơn người, có công giúp nước nên được Vua phong thần và trở thành Thành hoàng của làng. Trong đình còn thờ Chu Văn An là người có công lớn đối với dân làng Huỳnh Cung. Lễ hội làng được tổ chức hàng năm trong vòng 4 ngày từ ngày 18 đến 21 tháng 1 âm lịch để tôn vinh Thành hoàng làng và Đức thánh hiền Chu Văn An.
Sáng ngày 18, đội ngũ người được làng chọn lựa vào bao sái (lau tượng) tượng và đồ lễ trong đình. Đầu giờ chiều, đội ngũ các bô lão đã tề tựu trước cửa ở sân đình trong trang phục quần áo tế lễ cổ truyền để tễ tế trong tiếng trống trầm hùng.
Ngày 19, các tổ chức, dòng họ, gia đình, nhân dân khắp vùng dâng lễ thánh. Chiều và tối, biểu diễn văn nghệ truyền thống tại sân đình.
Ngày 20 là ngày hội chính, tiếng trống hội đập rộn ràng từ lúc sáng sớm với màn tuyên dương các học sinh giỏi cấp huyện và thành phố, các gia đình có người đỗ đạt cao giúp ích được cho đất nước, làng xã. Sau đó là màn rước kiệu, lễ tại tượng đài lưu niệm Bác Hồ, lên chùa làng tế lễ và dâng hương Đức thánh Chu Văn An.
Màn rước kiệu từ đình đến chùa được tổ chức hoành tráng với sự tham gia đông đảo của dân làng. Mở đầu là đoàn múa sư tử của các võ sinh trong làng, tiếp theo là rước ảnh Bác Hồ của các cháu thiếu nhi, tiếp theo nữa là đội mang đồ lễ của các dòng họ và dân chúng trong làng, đi sau là đội tế lễ, và sau cùng là đội khiêng kiệu do nam thanh nữ tú của làng đảm nhiệm.
Chiều giao lưu văn hóa văn nghệ và bóng đá giữa các làng tại sân vận động của xã.
Ngày cuối cùng của lễ hội. Từ sáng sớm các cụ bô lão đã chuẩn bị để làm lễ tạ tại đình làng và dã hội.
Lễ hội làng Huỳnh Cung được tổ chức khá lớn, diễn ra tưng bừng, trong không khí trang nghiêm thành kính của dân làng và nhân dân các vùng phụ cận tham gia lễ hội.
Núi Sưa nằm trong công viên Bách Thảo, phường Ngọc Hà , quận Ba Đình, Tp Hà Nội. Lễ hội Núi Sưa là hội của 3 làng cổ (Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Xuân Biểu) đều thờ chung một thần Hoàng làng là Đức Huyền Thiên Hắc Đế. Ông có công phò trợ Lý Thánh Tông đánh giặc Chiêm Thành. Lễ hội được tổ chức hàng năm vào ngày sinh của ông 19/ 1 âm lịch .
Lễ hội được diễn ra vào sáng sớm với màn tế lễ của các cụ cao niên. Trong bộ trang phục tế rất oai nghiêm, các cụ đứng trước sân đền tuyên biểu tấu với Thần về những việc dân làng đã làm được trong năm và xin thần phù hộ độ trì cho bình an, mưa thuận gió hòa để nhân dân hưởng an vui, và làm ăn phát đạt. Sau màn tế lễ là màn rước kiệu của cả ba làng. Các chàng trai cô gái trong trang phục cổ truyền thống người cầm cờ, cầm hoa, người múa diễu đoàn đi trước. Sau đó là kiệu được các chàng trai khỏe mạnh khiêng, tiếp đó là các cụ bô lão bước theo sau với nét mặt phấn khởi vui mừng như để báo công với Thần hoàng.
Trong dịp lễ hội có nhiều trò chơi tiết, mục biểu diễn văn nghệ như hát chèo, đánh cờ người, đấu võ, chọi gà được nhân dân trong 3 làng cũng như các vùng hưởng ứng tham gia. Lễ hội là một trong những lễ hội tiêu biểu của 3 làng trại trong 13 trại cổ vẫn còn tồn tại và phát triển đến ngày nay.
Lễ hội Thập Tam Trại là một lễ hội lớn của 13 làng trại thuộc quận Ba Đình, để tưởng nhớ Nguyễn Quý Công, người làng Lệ Mật, nay thuộc phường Việt Hưng, quận Long Biên đã có công khai khẩn vùng đất hoang phía tây kinh thành Thăng Long, tạo nên vùng nông nghiệp trù phú ven đô với địa danh Thập Tam Trại. Lễ hội được tổ chức vào ngày 21/1 âm lịch hàng năm tại Công viên Bách Thảo, phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội.
Lễ rước có đầy đủ 13 làng trại là Vĩnh Phúc, Liễu Giai, Cống Vị, Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Kim Mã, Xuân Biểu, Thủ Lệ, Vạn Phúc, Ngọc Khánh, Đại Yên, Giảng Võ, Cống Yên bên cạnh sự tham gia của làng trại Lệ Mật, quận Long Biên, làng trại Hào Nam, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa…
Lễ hội được bắt đầu từ 8 h sáng với màn diễu hành trước lễ đài. Dẫn đầu là đội trống, đội cờ, đi sau là đội lễ cờ và khối quần chúng cầm cờ hoa, tiếp là màn rước kiệu, nhẩy múa ca hát theo thứ tự của 13 làng trại với những cụ bô lão, nam nữ thanh niên trong trang phục quần áo lễ truyền thống. Đoàn sẽ rước qua cổng làng Ngọc Hà, diễu hành trên đường Ngọc Hà – Hoàng Hoa Thám trở lại và đi vòng quanh hồ trong Bách Thảo.
Lễ hội được mở rộng với nhiều tiết mục đặc sắc như màn biểu diễn múa quạt dưỡng sinh được thực hiện bởi 100 cụ bà. Nối tiếp chương trình là màn biểu diễn võ thuật với 100 võ sinh trình diễn. Kết thúc phần biểu diễn diễu hành là màn Ngũ Long (5 rồng) với đầy đủ mầu sắc múa lượn biểu diễn đẹp mắt.
Trong chương trình lễ hội cũng không thể thiếu các trò chơi dân gian như, đánh cờ người, chọi gà, đập niêu đất, đánh đu tre. Nhiều hoạt động như hội thi, trưng bày cây cảnh, bày mâm cỗ hoa quả, biểu diễn dân ca trên thuyền, ca trù, dân ca, hát chèo. Tiết mục cuối cùng kết thúc lễ hội cũng chính là tiết mục được mọi người xem đông đảo và thích thú nhất là tiết mục “Chém rắn” của làng Lệ Mật.
Lễ hội Thập Tam trại không chỉ mang tính địa phương nhằm tôn vinh tưởng niệm ghi nhớ công ơn người đã có công với dân, cũng là nơi giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, truyền thống văn hóa, tín ngưỡng tâm linh, cũng là dịp ôn lại trang sử dựng làng trại đầy gian nan thử thách, góp phần giao lưu thúc đẩy mối liên hệ cộng đồng của 13 làng trại, tình gắn bó quê hương, mảnh đất nơi sinh ra những con người siêng năng và tạo cho họ bản lĩnh can trường mang đậm truyền thống Thăng Long – Hà Nội.
Lễ hội Thập Tam Trại quận Ba Đình là một sự kiện văn hóa, nghệ thuật truyền thống và đương đại là dịp thu hút đông đảo quần chúng nhân dân trực tiếp tham gia, thể hiện sinh động và thụ hưởng văn hóa. Lễ hội truyền thống của các địa phương quận Ba Đình trong sự giao lưu hội tụ, tạo sức mạnh đoàn kết, lan tỏa, qua đó khơi dậy lòng tự hào dân tộc với truyền thống ngàn năm văn hiến, tri ân các bậc tiền nhân, tôn vinh quảng bá hình ảnh văn hóa Thập Tam Trại với nhân dân Thủ đô, đồng bào trong nước và bạn bè quốc tế.
Đình Yên Phụ thờ Uy Đô Linh Lang tọa lạc trên một bán đảo nhô ra Hồ Tây thuộc làng Yên Phụ, quận Tây Hồ, Tp Hà Nội. Uy Linh Lang là hoàng tử, con vua Trần Thánh Tông, Ngài chính là vị anh hùng chống quân Nguyên Mông xâm lược. Hội đình được mở vào ngày 10/ 2 âm lịch hàng năm với sự tham gia của nhân dân các địa phương xung quanh hồ Tây như Nghi Tàm, Tứ Liên, Nhật Tân, đặc biệt có đoàn kết chạ từ làng Thanh Cù, huyện Kim Thi (Hưng Yên) nơi có Gò Đống Mối tương truyền là mộ Uy Đô Linh Lang về dự. Hội đình Yên Phụ đến nay vẫn được đánh giá là giữ được nề nếp Hội đình của Hà Nội.
Lễ hội được bắt đầu từ sáng với lễ tế của các bô lão. Sau nghi thức lễ tế là biểu diễn múa lân múa rồng của các thanh niên trong làng. Lễ hội đình được diễn ra tiếp theo với màn rước kiệu do 4 thanh niên khoẻ mạnh, mặc áo dài, dải có tua mạng. Hai kiệu đại do 16 thanh niên cường tráng, khoẻ mạnh mặc áo trắng, quần trắng, đai đỏ, đai xanh khênh, đi theo là đoàn múa sinh tiền, các vị chức sắc bô lão và nhân dân cùng hưởng ứng. Múa Rồng và các kiệu được rước dọc phố Yên Phụ qua đường Thanh Niên tới chùa Trấn Quốc để thỉnh nước về tắm tượng. Đoàn rước sau khi vào chùa và được Hòa thượng trụ trì đọc sớ ban phép vào nước thỉnh. Khi thỉnh được nước cả đoàn lại rước về đình và tổ chức lễ mộc dục (tắm tượng). Trong hội còn diễn ra nhiều trò chơi như, đánh cờ người, chọi gà, chọi chim, bơi thuyền...
Hội đình Yên Phụ trang nghiêm và là một nét đẹp văn hoá truyền thống của Hà Nội vẫn được duy trì giữ gìn.
Lễ hội đền Cống Yên được tổ chức trong 2 ngày 12 đến 13 tháng 1 âm lịch hàng năm tại Đền Cống Yên, phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Suy tôn Đức Thánh Quảng Hồng có công đánh giặc Nguyên ở thế kỷ 13. Người được phong là Bản Cảnh Thành hoàng Quảng Hồng linh ứng Thượng đẳng Thần Đại Vương.
Sáng ngày 12/1 diễn ra lễ yết, sau đó là tổ chức các cuộc thi, các trò chơi và biểu diễn văn nghệ. Ngày hôm sau, 13/1 là ngày chính hội với khâu chuẩn bị duyệt lễ rước từ sáng sớm cùng các thanh niên trai làng cường tráng, tiếp theo là khai mạc lễ hội. Với màn dâng hương lễ thánh đọc thần phả của đền, sau đó hai đội tế lễ nam và tế lễ Nữ sẽ vào tế lễ với nhưng bước lên xuống nhịp nhàng cùng với nghi lễ long trọng, trang nghiêm. Tiếp sau là các trò chơi, múa hát có sự tham gia của dân làng trong vùng và các vùng lân cận kéo dài đến tận xế chiều.
Lễ hội đền Cống Yên diễn ra hàng năm và có sự tham gia đông đảo của dân chúng trong và ngoài vùng. Là một trong những lễ hội truyền thống của nhân dân trong 13 làng trại cổ thời Lý Nhân Tông.
Làng Động Phí thuộc xã Phương Tú, huyện Ứng Hoà, Tp Hà Nội. Trước năm 1945, Động Phí là tên gọi một xã gồm ba thôn Động Phí, Nguyễn Xã, Ngọc Động, thuộc tổng Đạo Tú huyện Ứng Hoà. Nay các thôn trên thuộc xã Phương Tú.Lễ hội làng Động Phí là một lễ hội lớn trong vùng được tổ chức hàng năm vào 2 ngày mồng 3 và mồng 4 tết với sự tham gia của hai thôn Nguyễn Xá và Ngọc Động. ĐÌnh làng Động Phí, đình làng Ngọc Động và đình làng Nguyễn Xá thờ 3 Thành hoàng là 2 anh em Bạch Tượng, Bạch Địa vad người em con dì là Đô Đài có công giúp Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước. Do Bạc Tượng là cả nên hội làng Động Phí lớn nhất.
Chính hội làng Động Phí tổ chức vào ngày mồng 4 tháng giêng, tương truyền là ngày huy công Bạch Tượng xuất trận dẹp loạn. Tuy nhiên, hội làng được tổ chức tưng bừng từ chiều mồng 3 tết. Hôm đó, làng tổ chức nghiềm quân, biểu dương lực lượng tham gia rước Thành hoàng. Tất cả quân rước tụ tập đông đủ ở sân trước nhà đại bái của đình Động Phí, dưới sự chỉ huy của ban khánh tiết, đoàn rước theo trình tự lần lượt rước kiệu Thành hoàng từ đình ra đầu làng, xuống cuối làng.
Hội đình nghiềm quân có đội cờ, đội rước bát bửu, đội nhạc bát âm, đội múa sênh tiền 12 - 16 em gái, đội trống nữ, đội múa rồng phù giá kiệu. Đáng chú ý hội rước làng Động Phí có bốn cỗ kiệu:
1. Kiệu Tam tự (1 đỉnh đồng và 2 cây nến bằng đồng).
2. Kiệu ngũ sự (1 đỉnh, 2 cây nến bằng đồng và 2 lọ lộc bình).
3. Kiệu long đình đặt long ngài bài vị đức bản thổ.
4. Kiệu bát cống, 16 người khiêng trên kiệu đặt long ngai bài vị huynh công Bạch Tượng đại vương.
Rước kiệu Thánh một vòng quanh làng thì hồi giá trở lại đình, xếp các cỗ kiệu trước cửa nhà đại bái. Buổi tối các cụ tổ chức tế Thành hoàng. Việc tế rất nghiêm cẩn. Tục xưa đến nay làng Động Phí nhất thiết phải sửa một cỗ chay dâng lễ nhà Thánh.
Mâm cỗ chay gồm: 3 bát cơm, 3 bát chè, 3 bát canh đậu và 6 đĩa (đĩa cùi dừa, đĩa lạc, đĩa bí, đĩa vừng, đĩa giá đậu, đĩa đậu ván) cũng gọi là tục cúng.
Sáng mồng 4 tết là ngày chính hội, dân làng Động Phí tề tựu nghênh đón hai đoàn rước của làng Nguyễn Xá từ trên xuống, của làng Ngọc Động từ dưới lên. Theo quy định nếu đám rước của làng Nguyễn Xá đến trước thì phải dừng trước nghi môn đợi đám rước làng Ngọc Động tới và nhường kiệu Thánh Ngọc Động vào trước vì Thành hoàng Ngọc Động là Tượng Địa đại vương thuộc thứ bậc hàng trên của Thành hoàng làng Nguyễn Xá là Đô Đài đại vương.
Lúc này là thời điểm tưng bừng nhất của hội làng Động Phí. Cuộc hội nhập đám rước của ba làng nghênh đón tiếp nhau. Các đội múa sư tử tự do trình diễn, tiếng trống hội náo nhiệt phá vỡ trật tự nghiêm chỉnh của đám rước kiệu, nhiều khi có cả kiệu quay, kiệu bay. Cờ xí bát bửu rợp trời. Múa sênh tiền, múa trống.... bộc lộ tài năng đa dạng.
Đặc biệt trong hội trước đây còn cò trò cướp cầu, đến nay thì không còn. Tương truyền cầu được làm từ của cây chuối hột đường kính 0.4m. Lễ cướp cầu được tổ chức tại sân đình thôn Động Phí và 5 thôn lân cận trong 9 keo kéo dài 3 ngày, bên nào cướp được cầu cho vào hố của mình sẽ là người chiến thắng.
Sau những màn trình diễn ngoạn mục các trò dân gian, các cỗ kiệu Thánh được đón rước qua nghi môn vào đặt ngay ngắn ở trước cửa đình. Bấy giờ các cụ ba thôn cùng vào thực hiện các nghi lễ tế cộng đồng. Cuộc tế kéo dài nhiều tuần. Buổi trưa dân làng tổ chức ăn chay kết nghĩa với nhau. Cuối buổi chiều dân làng Nguyễn Xá và Ngọc Động rước kiệu về. Các thôn tiếp tục nghi lễ tế đêm hôm đó tại đình làng mình.
Hội làng Động Phí thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, tưởng niệm các vị anh hùng có công với đất nước, thắt chặt tình nghĩa giữa các thôn cùng chung một tín ngưỡng, từ đó tăng cường sự đoàn kết giúp đỡ nhau trong cuộc sống và góp phần bảo lưu những giá trị văn hoá đặc sắc ở địa phương.
Làng Thanh Am thuộc xã Thượng Thanh, Huyện Gia lâm, TP Hà Nội là một làng Việt cổ ở ven đô, kề bên sông Đuống, Xưa kia vẫn thường gọi tên nôm là làng Đuống. Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về, dân làng lại mở hội - một sinh hoạt văn hoá truyền thống có sức cuốn hút nhiều người tham gia và trở thành nhu cầu lớn trong đời sống tinh thần của nhân dân. Hội làng Thanh Am thường tổ chức trong ba ngày, từ mồng 9 đến 10 tháng ba, ngày mồng 10 là chính hội.
Ngày mồng 9: Việc đầu tiên là nghi lễ rước nước. Mọi người tề tựu đông đủ, ăn mặc chỉnh tề, thái độ trang nghiêm. Theo tuần tự, cờ thần đi trước, đội “a dứ” tiếp sau. Đội này gồm 4 hoặc 8 thanh niên mặc quần áo trắng, thắt khăn xanh đỏ ngang lưng, tay cầm cờ đuôi nheo ngũ sắc, chạy ngược chạy xuôi rồi chạy vòng cung, phất cờ từ trái sang phải và ngược lại, miệng hú “a dứ”. Sau đội “a dứ” đến hàng bát bửu, rồi đến trống chiêng mở đường cho kiệu thánh đi. Sau kiệu có đội nữ mặc áo thụng xanh hay hồng, đầu đội khăn xếp rộng màu vàng, lưng thắt khăn màu bỏ múi ra bên, vừa đi vừa múa sênh tiền khá yểu điệu và duyên dáng. Đi tiếp sau là cụ tiên chỉ làng (hay cụ từ) trong lễ phục màu đỏ, đội mũ tế, chân đi hia. Tiếp nữa là đại biểu của hai làng kết chạ (Lê Xá và Cống Thôn) rồi đến các vãi và trai tráng trong làng đi thành hàng đôi dài hơn cây số. Nơi xuất phát là đình, đi vòng qua nửa làng lên đê, dọc theo đê một đoạn dài, rồi dừng lại nơi có cắm sẵn lá cờ thần và có một chiếc thuyền gỗ có trang trí những dải lụa đỏ quanh thuyền đã neo đợi từ trước. Pháo lệnh nổ, cờ dàn ra hai bên, kiệu thánh dừng. Chiêng trống dồn dập. Cụ tiên chỉ thong thả bước xuống thuyền, hai trai làng khênh một chiếc choé có phủ vải điều bước theo xuống. Pháo lệnh nổ, thuyền chèo ra giữa sông và đi ngược lên một đoạn, chọn nơi dòng nước trong thì dừng lại. Một tràng pháo tép được đốt lên, vang trên mặt sông, khói lan toả quyện vào làn sóng. Dứt tiếng pháo, cụ tiên chỉ khoan thai múc từng gáo nước đổ vào choé bằng gốm sứ Bát Tràng. Khi choé đã đầy nước thì đậy nắp và lại phủ vải điều lên trên. Thuyền quay mũi chèo về cập bến và trai làng lại khênh lên bờ đặt vào kiệu. Đoàn rước nước lại tề chỉnh như ban đầu tiếp tục rước về đình làng là nơi xuất phát. Về tới đình đã 9 - 10 giờ sáng, kiệu đặt ngoài sân trước cửa đình có tàn lọng che. Riêng choé nước được rước vào chính tẩm. Sau khi hai đội nam và nữ lần lượt vào hành lễ xong đến các đội khác như đội a dứ, đội sênh tiền, đội nhạc lễ và bà con thập phương. Lại nói về choé nước được cụ thủ từ trịnh trọng rót ra bình nhỏ và đổ vào các chén nhỏ để cúng còn lại dùng vào việc “mộc dục”, tức là tắm rửa lau chùi các tượng thánh và ngai thờ (tượng thánh thực ra mới có về sau do các dòng họ trong làng và thập phương công đức, phỏng theo hành trạng của vị thánh mà tạo tượng một cách ước lệ). Lễ rước như vậy là hoàn tất vào trước ngày lễ hội chính. Phong tục rước nước này cũng là phong tục chung phổ biến của cư dân nông nghiệp, ẩn chứa điều mong muốn, niềm khát khao ngưỡng vọng thiên địa thần linh cho mưa thuận gió hoà, nước nôi đầy đủ để hoa màu tươi tốt, cây lúa sai hạt nặng bông, mùa màng bội thu, cuộc sống ngày thêm no đủ thịnh vượng.
Ngày mồng 10 vào chính lễ hội. Suốt ngày hương khói nghi ngút. Đội nữ làm lễ dâng hương rồi đến đội nam tế. Sau 2 đội này là các “chạ” anh vào tế và thập phương vào cúng vái… Điều đặc biệt ở Thanh Am là có nữ dâng hương đầu tiên mà xưa kia ít nơi có bởi quan niệm phong kiến khắt khe “nữ nhân bất đáo đình trung”. Hỏi ra mới biết, nơi đây còn thờ 2 tướng của Hai Bà Trưng là Đào Kỳ và Đào phu nhân (Phương Dung công chúa); vì có nữ tướng nên nữ giới mới được quyền tham dự tế lễ như ta đã thấy. Các dòng họ cũng đội xôi gà ra lễ thần thánh, lễ xong đem về các nhà trưởng họ chia lộc hay thụ lộc tại đấy. Chiều và tối chủ yếu là trò vui. Trong đình có chiếu chèo hoặc diễn tuồng. Hai loại hình nghệ thuật này thu hút được phần lớn các cụ, các ông, các bà mà chưa hấp dẫn được đông đảo thanh thiếu nhi lắm, nên có năm ban tổ chức lễ hội đã xin phép các cụ cao niên trong làng mời đoàn quan họ Bắc Ninh về biểu diễn, hát trên thuyền rồng bơi trước ao đình để bà con ngồi đứng quanh sân cùng thưởng thức và tự động thưởng cho các nghệ nhân.
Ngoài quan họ, xưa kia theo người già kể lại còn tổ chức kéo co, thả vịt dưới ao cho trai làng đuổi bắt, hoặc các vùng khác đem gà đến chọi… Lại còn trai gái các làng phụ cận đêm kéo đến xem hội, vừa có dịp để chưng diện những bộ cánh sang trọng hòng lọt “mắt xanh” các cô nàng. Họ đến đây vui chơi thoải mái không bị bố mẹ rầy la, lại là cơ hội tìm bạn tâm tình qua những câu chuyện vui hay khúc hát giao duyên:
Hội làng Thanh Am xưa là thế đó. Nay thời thế đã thay đổi, trai gái làng không tìm hiểu nhau qua câu đối đáp xa xưa. Thay vào hát ví là hát những bài tình ca mới hoặc những bài thơ tự biên tự diễn… Lớp trung niên thì ham thi đấu cầu lông và biểu diễn Thái cực quyền, lớp các cụ cũng bỏ tổ tôm, tài bàn, xóc đĩa để vui với cờ tướng và xem video, trẻ em thì thích chơi điện tử và đá bóng…
Lễ và hội ở làng Thanh Am vừa giữ được truyền thống xưa vừa có chiều đổi mới mà vẫn vui, vẫn lành mạnh, vẫn đậm đà bản sắc dân tộc.
Đền Đồng Nhân thuộc quận Hai Bà Trưng (Hà Nội), thờ Trưng Trắc – Trưng Nhị là những nữ anh hùng kiệt suất đã khởi nghĩa chống quân Đông Hán giành độc lập cho đất nước. Đã thành thông lệ hàng năm, cứ vào mùng 3 đến mùng 6 tháng 2 âm lịch, người dân phường Đồng Nhân và nhân dân Thủ đô lại nô nức hướng về lễ hội đền Đồng Nhân để tưởng nhớ tới công lao dẹp giặc cứu nước của Hai Bà Trưng.
Chính hội vào ngày 5/2 âm lịch có lễ tắm tượng, mở cửa hậu cung, tế và múa đèn. Ðám rước thánh giá cử hành uy nghi từ đền ra sông Hồng để tắm tượng. Sau đó rước tượng Hai Bà trở về đền. Cuộc tế được tiến hành rất trang nghiêm. Phần lễ có nhiều tiết mục đặc sắc, nhất là điệu múa đèn thờ. Tham gia biểu diễn tiết mục múa đèn là 10-12 cô gái trẻ đẹp, ăn mặc sặc sỡ, mỗi cô gái cầm 2 ngọn đèn. Ðiệu múa uyển chuyển theo nhịp trống cơm bập bùng làm náo nức lòng người. Trong lễ hội còn có nhiều trò chơi. Ngày 6 rã đám, có tế lễ dâng hương.
Lễ hội Đồng Nhân là một trong những lễ hội đặc sắc của người dân Thủ đô, nó giúp cho con cháu các đời sau luôn biết hướng về cội nguồn, không quên ơn các vị anh hùng dân tộc đã có công chống giặc giữ nước.
Làng Me là tên của xã Cung Thuận, nay thuộc xã Tích Giang, huyện Phúc Thọ. Làng Me thờ thần Tản Viên. Trong tâm thức của dân làng, Đức thánh Tản đã có công đánh thắng Thủy Tinh, diệt trừ thủy quái, đem lại mùa màng tốt tươi cho nhân dân. Để ghi nhớ công ơn của Thánh Tản, hàng năm dân làng tổ chức đánh bắt các loài thủy tộc dâng tiến lên Ngài. Xuất phát từ quan niệm đó nên làng Me có tục thi đánh cá vào dịp hội làng. Hội làng thường được mở từ ngày mồng 2 đến mồng 10/2 Âm lịch hàng năm.
Hội làng Me có nhiều trò vui dân gian, nhưng đặc sắc hơn cả phải kể đến trò thi đánh cá vào sáng 4/2.
Làng Me có một cái ao lớn hình vòng cung như ôm lấy ngôi đình, dân làng vẫn gọi là ao đình. Cá nuôi trong ao đình không ai được đánh bắt trước khi vào đám. Hàng năm, làng phân công người làng trông nom ao cá chu đáo, do đó cá ở ao đình bao giờ cũng sinh sôi nảy nở rất phong phú về chủng loại: mè, trôi, trắm, chép...
Sáng sớm ngày 4/2, dân làng đã náo nức từ các xóm ngõ kéo nhau ra ao đình dự hội thi đánh cá. Xung quanh bờ ao, hàng mấy trăm người chia thành từng phe, từng giáp đã tề tựu với đủ nơm, cụp, vó... sẵn sàng đợi lệnh xuống bắt cá.
Quang cảnh hội thi hết sức nhộn nhịp và hồi hộp. Vòng trong là những người dự thi, dáng vẻ hăm hở, có người miệng còn bỏm bẻm nhai trầu cho đỡ lạnh. Còn vòng ngoài là tầng tầng lớp lớp những người đi xem, cổ vũ, đứng chật ních không còn hở một chỗ nào. Những người ở các xã lân cận cũng tới xem.
Sau khi vị đại diện của làng đã làm lễ khấn để xin lệnh đức Thánh ở đình, một hồi trống ngũ liên nổi lên dồn dập, vang lừng, như thôi thúc. Thế là tất cả những người dự thi đều nhất tề nhẩy ùm xuống ao. Kẻ nơm người chụp khua múa rối rít, loạn xạ ở dưới nước.
Nước ao chao động sóng sánh, bọt nước đục ngầu, bắn tung toé cả lên bờ. Tiếng người đuổi bắt cá dưới ao hò reo một, thì tiếng người cổ vũ trên bờ hò reo mười, thêm vào đó là tiếng trống thúc giục đổ hồi, tạo nên những âm thanh pha tạp, ồn ào, náo nức, rầm vang cả một góc trời.
Với công cụ trong tay, mạnh ai nấy úp, họ chen lấn, tranh cướp từng bước chân, từng khoảng trống, khiến cho cá bị dồn đuổi, quẫy nhảy tứ tung, có con quá hốt hoảng nhảy cả lên trên bờ. Mỗi khi có người bắt được cá, kể cả bắt trượt cá, tiếng hò reo lại nổi lên rầm trời. Ai bắt được con nào đều đưa ngay cho người nhà đã đợi sẵn trên bờ, để gom riêng từng phần mà tính điểm thi.
Hội thi đánh cá ồn ào, sôi động, kéo dài cho đến tận quá giờ mùi, khoảng nửa buổi chiều, khi nghe tràng pháo nổ báo hiệu kết thúc thì mọi người mới ngừng tay. Bấy giờ, từng phần cá đều được khiêng cả vào sân đình để chấm điểm. Đám người xem hội lại ùa vào theo, nhất là đám nam nữ thanh thiếu niên, tha hồ mà xô đẩy, chen lấn, hò hét ầm ầm, thật đúng là cảnh "tả tơi xem hội."
Những người được phần thưởng mặt mày hớn hở. Những người không được thưởng cũng tươi vui, hồ hởi. Người làng Me hôm ấy đắm mình trong không khí vui vẻ, sảng khoái.
Số cá thu được trong hội thi được đem chia đều cho tất cả mọi người trong làng để làm tiệc cá. Tục thi đánh cá làng Me là ảnh xạ của một lễ nghi nông nghiệp cổ xưa, mà trong đó tàn dư của tư tưởng cộng đồng thị tộc còn thấy khá rõ.
Một vài nơi khác ở xứ Đoài cũng có tục thi đánh cá thờ thần núi Tản Viên, nhưng hội thi đánh cá làng Me là vui hơn cả, đặc sắc hơn cả. Bởi vậy, nó được nhân dân khắp nơi hưởng ứng, ngợi ca và đã đi vào câu hát dân gian tự thưở nào.
Làng Thụỵ Lôi thuộc xã Thụỵ Lâm, Đông Anh. Tích xưa kể rằng sau nhiều lần xây thành Cổ Loa không xong, cứ ngày xây đêm lại đổ, vua Thục Phán An Dương Vương được thần Huyền Thiên Trấn Vũ giúp diệt trừ yêu tinh, từ đó thành xây lên mới vững chãi. Để tạc ghi công đức của thần, nhà vua cho xây dựng đền Sái, thờ thần Trấn Vũ và hàng năm cứ vào mùa xuân nhà vua lại đích thân xa giá về bái yết tại đền. Về sau, việc đi lại khó khăn, tốn kém tiền bạc của nhân dân nên nhà vua ban chiếu cho làng Thụỵ Lôi thực hành nghi lễ này. Từ đó xuất hiện lễ hội “Rước vua giả”, còn gọi là lễ rước vua sống của nhân dân làng Thụỵ Lôi. Lễ hội được tổ chức vào ngày 11 tháng giêng hàng năm.
Để chuẩn bị cho ngày hội lớn này, từ những ngày đầu năm mới dân làng đã cho sửa sang lại đường sá, những cụ có uy tín trong làng tìm chỗ dựng dinh cho vua, chúa và các quan lại; dân làng làm bánh chưng, bánh dày tiến vua cùng nhiều sản vật khác... Trước ngày diễn ra hội chính, làng cho giết trâu, bò, lợn để khao dân tại đình làng... Sáng 11 tháng Giêng là ngày hội chính, ngoài người được chọn làm vua còn có chúa và bốn vị quan đầu triều cùng tham gia lễ rước. Vua giả ngồi trên kiệu được trai tráng trong làng rước ra đình cùng các quan. Trong khi rước, thỉnh thoảng đám trai tráng khênh kiệu “chúa” lại hô vang rồi chạy để dẹp đường cho “vua”. Sau khi “vua”, “chúa” cùng bá quan yên vị, yến tiệc bắt đầu; tan tiệc trống chiêng nổi lên rộn rã, theo nghi lễ truyền thống, “chúa” lên kiệu vào yết “vua”, sau đó “vua” lên kiệu và cuộc rước bắt đầu: “vua” lên bái vọng đức Huyền Thiên ở đền Sái và thực hiện nhiều nghi lễ khác ở đình, chùa... Lễ hội diễn ra trong không khí trang nghiêm mà náo nhiệt, chiêng trống nổi liên hồi, ai nấy đều hồ hởi dõi theo đám rước, hàng vạn người nối nhau làm ngày xuân như dài mãi... Đặc biệt sau lễ rước, “vua” trở về dinh là... nhà mình, ngự trên ngai vàng, bà con làng xóm vui mừng tới dinh “vua” chúc mừng. Theo các cụ cao niên trong làng, những người được phong “vua” phải đáp ứng nhiều yêu cầu khắt khe về đức độ, sức khỏe, tuổi tác (trên 70 tuổi)... Vị “vua” được chọn sẽ có uy tín rất lớn trong những việc nghi lễ của làng cho đến lễ rước tiếp theo có “vua” mới được bầu chọn. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, lễ rước vua giả ở Thụy Lôi bị gián đoạn, từ năm 1984 đến nay được duy trì rất đều đặn. Xưa kia, nhà vua cắt ruộng đất cho những người được giao chuẩn bị lợn, trâu làm lễ khi đón rước vua, nay ở Thụỵ Lôi vẫn còn những cánh đồng mang tên dõng Vua, khu Trâu đô, Lợn đô...
Trước kia lễ hội rước vua diễn ra trong ba ngày, nay chỉ tổ chức gọn một ngày cho phù hợp với đời sống văn hóa mới. Ngày 11 tháng Giêng hàng năm, du khách khắp nơi lại đổ về Thụy Lôi để dự lễ rước vua giả độc đáo của làng và càng thêm tự hào về một nét văn hóa đặc sắc của ngàn năm Thăng Long - Hà Nội.a
Khê Thượng là một ngôi làng cổ nằm ven sông Đà. Vào những ngày đầu năm làng mở hội thờ Tản Viên Sơn Thánh - vị thánh đứng đầu trong Tứ Bất Tử Việt Nam.Lễ hội diễn ra từ ngày mùng 3 đến ngày mùng 7 tháng Giêng. Nhưng thực tế bắt đầu từ 30 tết.
Nghi thức đầu tiên được tiến hành vào tối 30 Tết với ý nghĩa tiễn đưa Đức Thánh Tản Viên qua sông Đà về núi Nghĩa Lĩnh để lễ tết bố vợ của Ngài. Vào hôm đó, các chức sắc, bô lão ban Khánh tiết, người đăng cai đều phải mặc quần áo như trong ngày chính hội với mũ mão, quần áo tế lễ. Người ta tiến hành tế lễ ở đình theo nghi thức, rồi tất cả cùng dân làng ra bến đò làng Khê Thượng. Đó là lễ đưa tiễn Đức Thánh Tản qua bến sông. Tối 30 Tết, sau khi lễ tại đình, các chức sắc, bô lão, những người trong bàn Tế cùng dân làng, tề tựu tại bến đò. Lễ tiễn bắt đầu, người lái đò (mặc quần áo màu đỏ) lặng lẽ bước xuống đò sẵn ở đó và chèo chiếc đò không từ bến làng Khê Thượng sang bến đò Bộ thuộc xã Thạch Đồng, huyện Tam Thanh, Vĩnh Phúc. Mọi người đều hiểu rằng Đức Thánh đã lên đò để qua sông và Đức Thánh Tản không đi một mình mà có rất nhiều quân hộ tống. Do đó người lái đò phải chèo đi chèo lại ba lần qua sông, đó còn gọi là trò Rước Chúa Trai. Sau đó dân làng trở về nhà chuẩn bị Tết và đón Giao thừa với tâm trạng vui mừng phấn khởi hy vọng một năm mới sắp tới có nhiều may mắn và thành quả.
Chiều ngày mồng 2 người làng đã chuẩn bị kiệu, cờ trống, hương án bên bờ sông Đà để bái vong Ngài ở núi Nghĩa Lĩnh để rước Ngài về.
Sang sáng mùng 3 Tết cả làng sẽ mở hội tưng bừng với nhiều trò chơi nhộn nhịp ở sân đình như:chọi gà, đấu vật, chơi cờ, tổ tôm và còn có hát chèo, cùng các trò chơi, cuộc đua khác.Trò đấu vật là trò đặc biệt được chú ý đến, họ gọi là đấu vật thờ Thánh, nhằm khuyến khích tinh thần thượng võ của nhân dân, đồng thời nhắc lại sự kiện chiến thắng của Sơn Tinh với Thuỷ Tinh nhờ sức lực và lòng dũng cảm.
Tinh thần thượng võ của làng Khê Thượng còn được thể hiện ở tục “Chém may". Tục "Chém may" là tục lệ độc đáo của làng diễn ra ngày mồng 7 tết. Dân làng sẽ chọn ra những chàng trai khoẻ mạnh, không tang chế và điều tiếng gì trong năm. Người được chọn phải tự tập luyện một mình các thế múa dao để biểu diễn cho thuần thục. Nếu không tốt sẽ cảm thấy có lỗi trước thánh và gia đình. Sáng mồng 7 các chàng trai cởi trần, đóng khố đỏ, chất khăn đỏ, tay trái cầm chiếc thuyền giấy cũng màu đỏ, tay phải cầm dao. Con dao bị mài sắc theo quy định cổ truyền bằng 9 lần chiều ngang của bàn tay người lớn. Các chàng trai vào lễ thánh ở trong đình bước ra tề tựu ở ngoài sân trong sự hồi hộp, náo nức của dân làng. Tại đó họ dựng một hàng cây chuối to đứng thẳng đều nhau, cách chừng vài mét đủ tầm múa lượn của các chàng trai khi chém. Tiếng trống nổi lên, các chàng trai từ từ biểu diễn các điệu múa rồi nhanh dần, nhanh dần theo nhịp trống. Đến khi tiếng trống thúc đổ dồn thì các đường dao cũng xoáy tít và các chàng trai tiến dần đến chỗ những cây chuối. Nhanh như chớp nhảy lên, người ta chỉ nhìn thấy vệt dao loang loáng và lướt ngang thân cây chuối thấy nó đổ gục mà đoạn dưới vẫn đứng nguyên như không ai động đến. Tiếng reo hò cổ vũ vang dậy, đường chém ngọt, chuối đứt ngay báo hiệu điều lành. Bởi vì tài chém như vậy các quân thuỷ quái của Thủy Tinh sẽ sợ mà từ bỏ ý định phá hoại, quấy dân làng. Người ta vui mừng, hồ bởi vào lễ tạ trong đình và ra về với niềm phấn khích của một năm mới đầy hy vọng, bởi "vạn sự khởi đầu nan" đã rất tốt đẹp. Mọi người chúc tụng nhau, cùng vui chơi nốt ngày hội với hy vọng ngày mai tốt đẹp.
Hội làng Khê Thượng gắn liền với truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, thể hiện sức mạnh của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước chống lại thiên tai, bão lũ; đồng thời, thể hiện tinh thản thượng võ và hướng về cội nguồn của dân làng Khê Thượng.Đầu xuân mời bạn đến với làng Khê Thượng hòa mình vào lễ tục náo nhiệt có từ thuở khai sơ, nơi 18 thời vua Hùng dựng xây nên đất Việt lớn mạnh ngày nay.
Thời gian: Từ mồng 9 đến 12 tháng giêng âm lịch, định kỳ ba năm một lần.
Theo tích xưa, Phùng Hưng thắng giặc, lên ngôi vua, xưng là Bố Cái Đại Vương. Sau khi ông mất, dân làng đã lập đền thờ và suy tôn làm thành hoàng.
Ngày mùng 9, cửa đình được mở để lau chùi và làm lễ “Nhập tịch”
Sáng mùng 10, người dân đã tề tựu đông đủ ở Đại đình tiến hành lễ tế chính thức.
Theo truyền thuyết thì đây là lễ Tức vị (tức Lễ lên ngôi) của Phùng Hưng. Một đám rước long trọng, với đầy đủ những nghi lễ cần thiết rước mũ áo hoàng đế của Phùng Hưng từ đình Sắc về đình Đại. Các cụ già, những chàng trai, cô gái làng ăn mặc đẹp theo đúng nghi thức hội lễ: quần lụa, áo the, áo gấm, hài thêu hoa văn cầu kì, rực rỡ. Đoàn khiêng kiệu toàn những thanh niên trai tráng chưa vợ, vừa rước kiệu, nghi trượng che lọng vàng, lọng tía... vừa múa hát các điệu múa cổ như: múa trống bồng, múa sênh tiền trong tiếng nhạc réo rắt của đội nhạc phụ hoạ. Điều đặc biệt ở đám rước này, người rước hai bên vừa đi vừa ngoảnh mặt vào nhau. Khi đám rước đến nơi, các bô lão kính cẩn đọc văn tế, làm lễ dâng hương, mở hòm sắt lấy bút và chính thức bắt đầu cuộc tế lễ.
Ngoài phần lễ còn có phần hội rộn ràng hơn với các điệu múa cổ như: múa rồng, múa lân, múa sênh tiền, múa bồng và múa chạy cờ. Đáng chú ý nhất trong ngày hội làng là múa “con đĩ đánh bồng”, một điệu múa có tính ước lệ cao. Sở dĩ điệu múa nam giả nữ biểu diễn, là do từ xưa nữ giới không được tham gia vào chốn linh thiêng. Hơn nữa, mặc dù giả gái, nhưng những động tác lại toát lên phong thái nam nhi, tinh thần thượng võ. Phụ nữ khó thể hiện được tính cách ấy.
Ngày 12 là ngày giã hội. Dân làng làm lễ giã đám và kết thúc bằng điệu múa cờ. Điệu múa tượng trưng sự tích Phùng Hưng kén người tài bổ xung và quân ngũ trước khi lên đường quyết chiến với tướng giặc Cao Chính Bình của nhà Đường. Kết thúc buổi lễ, người dân tụ họp lại ở đình hưởng miếng lộc thánh, hy vọng một năm mới tốt đẹp hơn.
Hội làng vẫn giữ được nét nguyên sơ nhất của lễ hội truyền thống, nó mang cốt cách, nét đẹp tâm linh của thủ đô ngàn năm văn hiến. Nét nguyên sơ ấy được người dân Triều Khúc lưu truyền, còn mãi ở vùng quê cổ kính này.
Hội chùa láng được mở vào ngày 7/3 âm lịch tại ngôi chùa của làng Láng thuộc phường Láng Thượng quận Đống Đa, Hà Nội. Tương truyền đó là ngày sinh cùa Thiền sư Từ đạo Hạnh vị thánh của làng Láng, người được dân làng thờ phụng tại ngôi chùa này.
Tài liệu cũ ghi chép rằng: Hội Láng không phải được tổ chức hàng năm mà cứ phải mươi, mười lăm năm nhất là vào những lúc mưa thuận gió hoà, những khi vận hội thanh bình, nhà nhà no ấm hội mới được mở. Hội được mở cùng ngày với hội chùa Thầy, nơi tu hành của đức thiền sư. Việc chuẩn bị cho lễ hội khá công phu, chẳng hạn phải có đủ số lượng các loại pháo để bắn khoảng nửa giờ trong nghi lễ đấu thần, chọn lựa và huấn luyện hai bộ đô tuỳ nội và ngoại. Bộ đô tuỳ nội có 18 trai đinh, phải là những người đang còn chịu tang, như có ý để tang cho Thánh phụ (Từ Vinh) sẽ rước kiệu từ chùa Láng đến cống Cót, rồi độ hà sang sông, chuyển kiệu cho đô tỳ ngoại gồm 36 người (18 người dự bị), rước kiệu đi tiếp sang tận Dịch Vọng Hậu và lại rước trở về chùa Cả.
Ngày mồng 5 bắt đầu hội, kiệu Thánh được rước lên chùa Nền để ông thăm lại nơi chào đời. Ngày hôm sau lại rước Thánh xuống chùa Tam Huyền ở làng Mọc dể thăm cha. Hai ngày này chỉ rước bát hương mà không rước tượng. Tối mồng 6 tượng ngài trong chùa Cả được rước ngự tại nhà bát giác để Thánh xem mười cô gái xiêm y lộng lẫy hát múa. Mồng 7, chính hội có đám rước lớn có hai lá cờ tiết mao đi đầu. Nối theo là hai hàng chiêng trống. Có cả con đĩ đánh bồng và long đình gồm rất nhiều cờ, quạt, lọng, phướn theo sau. Lễ hội chùa Láng thực chất là lễ hội mùa xuân của cả một vùng gồm nhiều làng ở hai bên bờ sông Tô Lịch Hà Nội trước kia nên có những nét khác lạ. Từ chùa ra tới đường cái đám rước đi rất chậm, ra đến cổng làng thì tốc độ mới tăng dần lên. Vừa có lễ dành cho Thánh, vừa có lễ dành cho Phật lại vừa có lễ dành cho thiên tử tượng trưng cho 3 kiếp hoá của Từ Đạo Hạnh
Cái độc đáo làm nên nét riêng của lễ hội là hình thức trình diễn đấu thần. Tới cửa chùa Thánh Tổ (thờ Đại Điên) đám rước dừng lại, pháo lệnh nổ vang, rồi tiếp đó hàng loạt pháo thăng thiên và pháo chuột được đốt phóng sang chùa Thánh Tổ, sang chỗ kiệu Đại Điên đang núp. Đúng chính ngọ (12 giờ trưa) đám rước thật nhanh đi về chùa Cả. Đêm đó có hát chèo vãn hội. Hội Láng đã cho ta thấy sinh động cảnh sinh hoạt của người Việt đời Lý. Xưa kia dường như Đạo và Đời hoà vào làm một chính vì thế những ngôi chùa dọc hai bờ Tô giang liên quan đến sự tích Từ Đạo Hạnh vẫn được dân gian gọi là đền. Hình thức hội Láng nằm trong hệ thống các phong tục hội hè miền phụ cận kinh thành Thăng Long. Trải nhiều đời, nó đã góp vào quá trình sinh hoạt văn hoá dân gian chốn đế đô một tổng thể lễ tiết phong phú và độc đáo.
Hội chùa Hương diễn ra trên địa bàn xã Hương Sơn, trong địa phận huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Ngày mồng sáu tháng giêng là khai hội. Lễ hội thường kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Vào dịp lễ hàng triệu phật tử cùng du khách khắp 4 phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Hành trình về một miền đất Phật - nơi Bồ Tát Quan Thế Âm ứng hiện tu hành, để dâng lên Người một lời nguyện cầu, một nén tâm hương, hoặc thả hồn hòa quyện với thiên nhiên ở một vùng rừng núi còn in dấu Phật.
Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng riêng đến 18 tháng hai âm lịch. Ngày này vốn là ngày lễ khai sơn (lễ mở cửa rừng) của địa phương. Đến nay nghi lễ "mở cửa rừng" hàm chứa ý nghĩa mới - mở cửa chùa.
Lễ hội chùa Hưng trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm cả xã Hương Sơn.
Xã Hương Sơn là xã sở tại trực tiếp quản lý các tuyến du lịch. Trước khi vào chùa, du khách phải nghỉ lại ở các làng quanh bến Đục, bến Yến. Vì thế đi hội chùa Hương du khách dễ có dịp hòa mình vào không khí của hội làng truyền thống.
Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ. Trong lúc chạy đàn, hai vị tăng ni múa rất dẻo và đẹp mắt qua những động tác ít thấy ở mọi nơi. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt. Về phần lễ có nghiêng về "thiền". Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa Vòng là "chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngổn, là người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là "tì nữ tuý Hồng" của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần.
Như vậy, phần lễ là toàn thể hệ thống tín ngưỡng gần như là cả một tổng thể tôn giáo ở Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Những tính chất tôn giáo có phần bị tình yêu thiên nhiên, tinh yêu nam nữ, tình cảm cộng đồng… tràn đầy chất thẩm mỹ vừa thanh cao, rất trần tục lấn đi. Trẩy hội chùa Hương vì cả tâm hồn và thể xác đều được đắm sâu vào trong mây ngàn cỏ nội. Ngày hội, làng tổ chức rước thần từ đền ra đình. Cờ trống đi trước dàn nhạc bát âm kế theo, trai thanh gái lịch phù kiệu, ông già bà cả thành tâm tiễn thần. Không khí ấy làm tâm linh mọi người sảng khoái. Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc. điều khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng.
Trong suốt những ngày hội là sự nồng nhiệt của tuổi trẻ, là sự thành kính của các bậc cao niên, là sự hoan hỷ mà nam phụ lão ai ai cũng có phần riêng của mình.
Lễ hội chùa Hương là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn …
Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãng cảnh lạc vào non tiên cõi Phật.
Chính vì vậy, nói đến chùa Hương là nghĩ đến con đò - một dạng của văn hóa thuyền của cư dân Việt ngay từ thuở xa xưa. Và đến nay, ngày hội bơi thuyền ở chùa Hương luôn tạo cảm hứng mãnh liệt cho người đi hội.
Rời con thuyền, giã từ sông nước, con người được hòa nhập vào núi vãn cảnh chùa chiền và bắt đầu hành trình mới - hành trình leo núi. Leo núi chơi hang, chơi động lý thú vui nước đông đảo mọi người tham gia và hưởng ứng.
Trong không khí linh thiêng của ngày hội. Ở bất cứ chỗ nào như sân chùa, sân nhà tổ, hình thức hát chèo đò đều được thực hiện. Các vãi có giọng hay đứng dậy làm động tác chèo đò và hát những đoạn văn trên sáu dưới tám liên quan đến tích nhà Phật. Đây là một sinh hoạt rất được các vãi hâm mộ.
Có thể thấy, trẩy hội chùa Hương không chỉ dừng lại ở chốn Phật đài hay bầu trời - cảnh bụt, mà trước hết là do ở sự tiếp xúc - hòa nhập huyền diệu giữa con người trước thiên nhiên cao rộng. Đó là vẻ đẹp lung linh của sông nước, bao la của đất trời, sâu lắng của núi rừng, huyền bí của hang động… Và dường như đất - trời, sông núi đẹp hơn nhờ tài sáng tạo hình tượng - trí tưởng tượng này lòng nhân ái của con người.
Quan niệm lưỡng hợp biểu hiện ở thế đối ứng hai hiện tượng, hai phạm trù khác nhau mà bên nhau, làm cho cuộc hành trình về nơi thờ Phật dù có lúc vất vả nhưng vẫn đem lại sự cân bằng trong tâm thức và thể lực cho du khách.
Trẩy hội chùa Hương là hành động giải tỏa hòa hợp giữa thực và mơ, tiên và tục - thực là nền tảng, mơ là uất vọng - trên cái nền mùa xuân tươi sáng mà con người Việt Nam chất phác, nhân ái thuở xưa cảm nhận hành động và trao truyền.
Hội gò Đống Đa diễn ra hàng năm vào ngày mùng 5 tết Nguyên Đán tại gò Đống Đa, Phường Quang Trung, Quận Đống Đa, Hà Nội. Đây là lễ hội chiến thắng, được tổ chức để tưởng nhớ tới công tích lẫy lừng của vua Quang Trung - người anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Trong ngày hội có nhiều trò chơi vui khoẻ, thể hiện rõ tinh thần thượng võ. Trong đó, trò rước Rồng lửa Thăng Long là độc đáo nhất.
Cửa đình làng Khương Thượng từ tinh mơ đã mở rộng, khói hương lan toả. Trước đình treo một lá cờ lớn chào mừng ngày hội của cả làng.
Hơn 200 năm trước (1789), nơi đây là một chiến trường đẫm máu. Đêm mùng 4, rạng mùng 5 tết Kỷ Dậu (tức ngày 29, 30 tháng 2 năm 1789) đồn trại giặc ở Khương Thượng bị phá huỷ khiến tên Thái thú Điền Châu Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử tại đây. Gò Đống Đa đã trở thành một di tích lịch sử vẻ vang của nhân dân ta kể từ đó, đồng thời còn là một chứng tích về sự thất bại nhục nhã của kẻ thù phương Bắc xâm lược.
Vào buổi sáng ngày hội, các vị chức sắc và bô lão trong làng đã tề tựu đông đủ chuẩn bị cho cuộc đại lễ. Đến gần 12 giờ trưa, từ đình làng Khương Thượng đến gò Đống Đa, người ta tiến hành đám rước thần mừng chiến thắng. Đám rước dài, rực rỡ sắc màu trông rất đẹp mắt, diễu hành chậm rãi, trật tự để cho dân chúng có thể chiêm ngưỡng tỉ mỉ bức tượng hoành tráng của lễ hội.
Nhưng hấp dẫn và trẻ trung hơn cả là tốp đi sau cùng với "Con Rồng lửa". Thanh niên hai làng Đồng Quang và Khương Thượng đua nhau bện rơm thành hình những con rồng lớn và trang trí bằng mo cau và giấy bồi. Một tốp thanh niên mặc những bộ trang phục giống nhau đi quanh đám rước Rồng lửa và biểu diễn côn quyền nhằm tái hiện lại hình cảnh của chiến trận năm xưa, biểu dương khí thế của nghĩa quân Tây Sơn. Đây là một trò diễn độc đáo của lễ hội gò Đống Đa.
Từ sau ngày giải phóng thủ đô (10/10/1954), lễ hội gò Đống Đa được coi là ngày hội Đống Đa truyền thống, trở thành quốc lễ. Do đó, hàng năm, các vị lãnh đạo đại diện cho Đảng và Nhà nước ta đều tới dự và chủ trì mọi nghi thức của lễ hội. Quốc kỳ và cờ của ngày hội thi nhau bay phấp phới như chào đón du khách muôn phương. Nằm đối diện vời gò là chùa Đồng Quang cũng toả hương khói nghi ngút, tấp nập kẻ vào ra. Tai chùa, các sư làm cháo cúng lên các cô hồn của quân giặc như một hành động nhân nghĩa truyền thống của đạo đức nhân dân ta. Còn trước tượng vua Quang Trung, nhân dân cũng tới dâng hoa và tưởng niệm rất đông.
Sau những nghi thức trang trọng là đến các trò chơi và biểu diễn nghệ thuật dân gian như múa lân, múa rồng, đầu vật, cờ người, chọi gà. Quê hương Của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ là ở quận Bình Khê, tỉnh Bình Định. Ở đây, nhân dân cũng xây nhà thờ ba anh em nhà Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Hàng năm, cũng vào ngày 5 tết Nguyên Đán, nhân dân mọi nơi lại đổ về đây dâng cúng hương hoa để bày tỏ lòng biết ơn tới những anh hùng nghĩa sĩ và ôn lại những trang sử vẻ vang rất đỗi tự hào của dân tộc. Họ còn tổ chức các cuộc thi đấu võ, côn quyền, đánh trống... rất đặc sắc. Đặc biệt, tham gia các cuộc đấu võ không chỉ có nam giới mà có cả nữ giới nên hội càng thu hút đông khách tham quan.
Ngày nay, đi dự hội Đống Đa đối với người Hà Nội đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong những ngày đầu xuân.
Chùa Trăm Gian, còn gọi là chùa Núi, chùa Tiên Lữ, thuộc xã Tiên Phương, Huyện Chương Mỹ. Hàng năm chùa mở hội vào ngày mồng 4 tháng giêng, đó là ngày hoá của Đức Bồ tát khai Sơn- Nguyễn Bình An. Ông tu tại ngôi chùa này và là người nổi tiếng là thông tuệ phật pháp và có nhiều phép lạ giũp đớ dân chúng.
Lễ hội chùa Trăm Gian là lễ hội vùng, gồm các thôn như thôn Nội, thôn Thượng, thôn Phương Khê, ( thuộc xã Tiên phương) và thôn Thổ Nghĩa ( nay thuộc xã Tân Hoà, Quốc Oai)
Phần lễ của hội bao gồm: Đại đám có rước kiệu Thánh, rước nhang yến (án), rước giá cỗ (cỗ bánh chưng bánh dày của nhà chùa), rước giá văn bản (để bản văn tế), rước mâm ngũ quả và bát nhang.
Riêng kiệu Thánh là kiệu bát công do 18 người khiêng, mỗi giá rước có bốn người khiêng.Người rước đều mặc áo Mã tiền gồm trong là thân áo, ngoài đính các dải phướn màu xanh-đỏ-tím-vàng phía trên nhỏ bằng đũa cả, phía dưới to bằng mái chèo.
Ngày mùng 4, bắt đầu vào giờ Thìn (7-9 giờ sáng) thì rước kiệu ra sập đá trước nhà Tiền đường để trí kiệu (tức chồng đòn), cắm tàn quạt xung quanh và bày dàn bát bửu. Sau đó rước xuống núi theo đường chữ chi từ chùa xuống gác chuông thì vòng qua phải rồi quay lại đi giữa nhà giá ngự và hồ bán nguyệt để ra đường làng, từ đây đi thẳng ra Quán Thánh ở giữa đồng chiêm là nơi có dấu tích bước chân thứ nhất của Thánh về quê xin tương cà.
Đến hòn đá ở Quán Thánh thì tổ chức tế. Chỉ huy đám rước là ông Quản Tuần cùng các chức sắc chánh phó tổng, do trương tuần dẹp đường. Tế xong thì rước về, khi đi đến chân núi thì rước thẳng lên chùa mà không phải đi chữ chi nữa.
Đến tối Thánh hoàn cung thì đoàn Mai Lĩnh phải vào trước cửa điện Thánh làm lễ trình rối với ý nghĩa là sự trình diện của quân Minh xưa.
Tương truyền, khi quân Minh sang xâm lược kéo đến giết người, cướp của, đốt chùa vô cùng tàn ác, ngài làm ra mưa máu khiến chúng bị bệnh mà chết rất nhiều, phải rút đi. Sau khi quân Minh kéo về nước, còn một số ít xin ở lại lập nghiệp tại Mai Lĩnh. Vì thế hằng năm cứ đến đêm chính hội chùa Trăm Gian (đêm mồng bốn tháng Giêng) dân Mai Lĩnh, nay thuộc quận Hà Đông lại cử một đoàn người đến lễ trình con rối như một nghi thức trình diện của quân Minh xưa. Nếu như năm nào không lễ trình thì y như rằng không bị hỏa hoạn cũng làm ăn thua lỗ.
Đoàn Mai Lĩnh có 4-5 người, gồm một người gánh những con rối đựng trong hai bồ to và mấy người đi trình rối. Khi trình rối, họ căng màn lên, người trình đứng sau màn lần lượt giơ con rối bà mẹ rồi thứ tự rối các con. Trình xong, các con rối được cất đi để năm sau dùng lại, sáng hôm sau đoàn về.
Về mâm “ngũ quả” thực ra có nhiều thứ quả gồm chuối tiêu sáu nải, cam đường 10 quả, cam sành 10 quả, quýt 10 quả, bưởi đào một quả, bưởi chua một quả, bưởi đường một quả, bưởi gấc một quả, na một quả, mít một quả, dứa một quả… càng nhiều thứ quả càng tốt.
Trong hội rước ngày mùng 4, cỗ chay do nhà chùa sửa, có 16 bánh chưng và 16 bánh dày, cúng xong chia đều cho bốn thôn.
Đoàn đại biểu Bối Khê quê hương Đức Thánh sang dự hội chùa Trăm Gian được gọi là các cụ Sãi quan anh, gồm tám cụ ông và tám cụ bà. Đến hội chùa Bối Khê 12 tháng Giêng, đoàn đại biểu của “tứ bích” lên dự cũng được gọi như thế.
Để đón tiếp, làng bình chọn trong “Tứ bích” mỗi thôn hai người, phải là người cao tuổi, có uy tín trong dân, đạo cao đức trọng, đủ tư cách, khi tiếp chuyện phải nói năng lễ độ, nhún nhường, hàn huyên thân tình sau một năm xa cách. Các cụ Sãi Bối Khê được lấy từ bảy sào ruộng do làng cấp để tổ chức hai bữa cơm (trưa ngày 4, sáng ngày 5) và một bữa nước (tối ngày 4). Cỗ chứa Sãi rất to bày trên mâm vuông hai tầng. Trưa ngày 5 dân anh trở về.
Ngày 5 thổi cỗ chùa, người đến lượt phải làm không được cấp ruộng. Từ tối hôm trước, gia đình thổi cỗ đã cho người đi mời khắp lượt, người đến chùa đều có quà mừng. Gia đình phải chuẩn bị gạo ngon, rá mới để vo và chậu mới để đựng cơm canh. Vo gạo cả dãy dài, ông chủ đi xem thọc tay vào từng rá gạo để kiểm tra. Ăn cỗ chùa vào trưa ngày 5.
Đặc biệt những gia đình được chọn thi cỗ chay (xôi, chuối) để tế tạ ngày 6, phải chuẩn bị từ nhiều tháng trước.
Phần hội rất phong phú và độc đáo bao gồm: Thổi cỗ chùa, Thi oản chuối, múa rối, đốt pháo, đâud vật…. Đặc sắc nhất là cờ người. Nên hội chùa Trăm Gian còn được gọi là lễ hội đánh cờ người.
Hội pháo cũng sôi nổi, có pháo bông, pháo hoa, pháo ném vào màn pháo trên cao, pháo chuột, pháo nhị thanh.
Lễ hội là sự kết hợp hài hoà giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian của người Việt. Lại có yếu tố cài đan cài của thuyết Âm dương Ngũ Hành, chịu ảnh hưởng của Đao Giáo. Là một trong những lễ hội đậm yếu tố trí tuệ.
Theo truyền thuyết, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn (Hà Nội) là nơi dừng chân cuối cùng trước khi Thánh Gióng về trời, nên hàng năm cứ ngày mồng 6 tháng Giêng âm lịch, dân làng ở đây mở hội linh đình tại Khu di tích thờ Thánh Gióng – Phù Đổng Thiên Vương. Lễ hội Gióng Sóc Sơn diễn ra trong ba ngày với đầy đủ các nghi lễ truyền thống như: lễ khai quang, lễ rước, lễ dâng hương, dâng hoa tre lên đền Thượng, nơi thờ Thánh Gióng.
Trước ngày hội diễn ra, bảy thôn làng đại diện cho bảy xã chuẩn bị lễ vật trong ngày mở đầu hội chính. Nhưng nghi lễ đặc biệt sẽ được làm vào đêm mùng 5 đó là lễ Mộc Dục để mời ông Gióng về với các lễ vật, lễ phẩm đã được chuẩn bị chu đáo với lòng thành kính, mong đức Thánh Gióng phù hộ cho dân làng có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ngoài ra, trong hội còn có nhiều trò chơi dân gian sôi động như chọi gà, cờ tướng, hát ca trù… Ngày chính hội là mùng 7, ngày thánh hoá theo truyền thuyết. Ngày khai hội, dân làng và khách thập phương dâng hương, đúng nửa đêm có lễ khai quang - tắm cho pho tượng Thánh Gióng. Nghi lễ chủ yếu trong ngày chính hội là dâng hoa tre ở đền Thượng (thờ Thánh Gióng) và chém tướng giặc. Hoa tre được làm bằng những thanh tre dài khoảng 50cm, đường kính khoảng 1cm, đầu được vót thành xơ và nhuộm màu. Sau lễ dâng hoa, tre được tung ra trước sân đền cho người dự hội lấy để cầu may. Chém tướng giặc được thực hiện bằng cách chém một pho tượng, diễn lại truyền thuyết Gióng dùng tre ngà quật chết tướng cầm đầu giặc Ân là Thạch Linh (đá thành tinh).
Mặc dù có các nghi thức gắn với truyền thuyết Thánh gióng nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng: "Hội Gióng Sóc Sơn vẫn mang rõ tính chất hội cầu mùa theo tín ngưỡng dân gian phổ biến ở hầu hết hội xuân vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ"
Làng Đại Lan thuộc xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Đại Lan thờ ba vị thần: Linh Hồ, Minh Chiêu và Chà Mục, là các danh tướng đời vua Hùng thứ 17. Đã thành lệ từ lâu, hàng năm hội làng Đại Lan diễn ra vào ba ngày mồng 6, mồng 7 (chính hội) và mồng 8 tháng Giêng tại khu vực đình làng Đại Lan.
Việc sắp sửa cho hội làng bắt đầu từ nửa tháng trước đó. Chiều 23 tháng Chạp, làng tổ chức lễ rước nước từ sông Hồng về đình. Đi đầu có tuần đinh rúc tù và dẹp đường, kế đến là cờ, đội bát âm và kiệu nước. Bên trên kiệu nước đặt chóe sứ. Đi sau kiệu có các cụ ông. Đến bờ sông, đoàn rước dừng lại ở miếu Hà Bá. Sau khi làm lễ tại miếu, chóe được chuyển xuống thuyền. Khi con thuyền ra đến giữa sông, cụ Tiên chỉ trịnh trọng múc từng gáo nước vào chóe rồi sau đó rước về đình. Buổi chiều, nước trong chóe được dùng để bao sái ngai, bài vị của thần. Phục vụ cho việc mộc dục triều y (lau rửa ngai thờ và phong mũ, áo), làng chọn ba cụ song toàn. Các cụ tắm gội từ hôm trước. Nửa đêm 23, tại hậu cung, chỉ ba cụ được vào vấn đổi mã. Mã gồm mũ, áo, hia, đai đem phong lên ba ngai thờ. Sáng mồng 4 Tết, các bộ mã này được đem hóa.
Sáng mồng 6, trước khi bước vào ngày hội đầu tiên, các ngai thờ mới phong mũ, áo, hia thật. Trong khi đó, có hai đoàn rước cũng chuẩn bị xuất phát từ đình. Một đoàn do bốn trai làng khênh kiệu long đình ra nghè rước bát hương. Khi đoàn rước này đi từ nghè trở về đình, đến cửa đền Đức thánh Bà thì dừng lại. Tại đây, những người trong Hội Tư văn, trang phục áo the khăn xếp, thắt lưng đỏ, khênh kiệu bát cống rước Đức thánh Bà nhập đoàn về đình. Kiệu Đức thánh Bà đi trước, kiệu long đình đi sau. Buổi chiều mồng 6, tại đình diễn ra lễ tế hội đồng.
Trong năm, vào ngày sinh, ngày hóa của các vị thần, làng đều tổ chức tế lễ, nhưng chỉ vào chiều ngày mồng 6 mới có lễ rước văn. Văn tế được dân làng giao cho một vị cao niên viết. Người ấy phải là người viết chữ đẹp, phẩm hạnh tốt. Ở Đại Lan, việc này thường do Tiên chỉ đảm nhiệm. Đúng giờ đã định, làng đem long đình, cờ quạt, tài tử đồng văn và một chức sắc đội mũ, mặc áo thụng, đến nhà người viết văn tế để rước bản văn. Người viết văn cũng phải đội mũ, mặc áo thụng đi sau long đình. Cũng có năm, nghi lễ rước văn tổ chức đơn giản hơn. Trong đội hình rước không có kiệu long đình. Người viết văn, mặc áo the khăn xếp, hai tay bê hộp sơn son thếp vàng, bên trong có đặt bản văn tế.
Lễ vật trong các kỳ tế lễ ở làng có hương hoa, oản quả, xôi, thịt lợn, thịt gà. Đặc biệt, trong ngày hội làng có cá lăng và gỏi cá lăng. Đoạn sông Hồng chảy qua Đại Lan nước sâu, dòng chảy xiết. Trước đây, tại khúc này thường xuất hiện loại cá lăng thịt nạc hồng, chỉ sinh sống ở vùng sóng cả. Tương truyền, khi thân mẫu vị thần làng có mang, bà thích ăn gỏi cá lăng, vì thế trong bài văn tế ngày kỵ thần có câu: “Khải thánh chi tư, đàn tư chi kính, dụng thân nghi khổn chi thành” (Nhớ đức thánh mở mang, kính dâng lễ cá để tỏ lòng thành).
Hằng năm, trước ngày vào hội, muốn có cá lăng to để làm cỗ thánh, người ở ba giáp đăng cai phải đặt vạn chài đánh bắt. Cá được dòng theo thuyền để giữ cho sống nguyên. Chiều mồng 6, các giáp mới chuyển cá ra lễ trình ở đình. Cá đặt trên án thư, buộc ngang thân bằng vải đỏ. Lễ trình xong, cá của giáp nào đem về nhà trưởng của giáp ấy làm cỗ. Cá được pha lọc kỹ càng. Thịt cá thái miếng đều đặn. Một số dùng làm gỏi, số còn lại ướp với nghệ rồi đun chín, gắp vào đĩa, rắc riềng giã nhỏ lên trên. Vây, xương, thủ cá đem băm nhỏ và vê thành những viên đều nhau. Lòng cá nấu với rau cần. Rau cần múc ra bát chiết yêu, mỗi bát đặt sáu viên cá. Những công đoạn được tiến hành cẩn thận, chu đáo. Sáng sớm ngày mồng 7, lễ cá đặt vào mâm thùng có chân, sơn son thếp vàng. Ban khánh tiết của làng cử phường bát âm tới nhà đăng cai làm cỗ, rước lễ cá ra đình. Mâm thùng được hai trai đinh khiêng. Những người này mặc áo the khăn xếp, thắt lưng đỏ. Phía trên mỗi mâm cỗ đều có lọng che.
Trong ba ngày hội, trên sân đình có tổ chức thi vật, đánh gậy, múa roi. Sáng mồng 7, làng chọn hai cụ già vợ chồng song toàn vào vật thờ, các đô dự giải vào vật sau. Trước khi vào cuộc đấu, các đô vào trình nghệ theo cách ba ra ba vào. Hai đô tiến vào phía trước cửa đình, bắt tay và đi vài miếng cơ bản tỏ rõ tài nghệ của mình. Làng quy định, đấu vật chỉ có giải lèo và giải nhất. Khi thi đấu cấm kẹp cá, móc cổ, cài hàm, bấm huyệt. Các miếng chính để các đô trổ tài là gồng, sườn trái, sườn phải, bốc một, bốc đôi, đánh bò. Trước đây, Đại Lan có ông Ốc, ông Tư Viết, ông Ba Đức, ông Ba Nhì là những đô vật nổi tiếng của một thời. Riêng ông Hai Phả có miếng mói gót độc đáo. Cuộc đấu đương vào lúc cao trào, khi hai đô đương bắt tay tư, ông giật tay mói gót đột ngột làm đối phương lật ngửa trắng bụng.
Theo thần tích, vị thần làng có sở trường đánh gậy dài. Khi ra trận, một mình một gậy, tả xung hữu đột, ngài có thể đánh thắng hàng trăm quân giặc. Có lẽ từ tích ấy mà trong ngày hội hằng năm không thể thiếu môn đánh gậy. Đánh gậy để tưởng nhớ công lao các vị thần, đồng thời cũng để rèn sức, rèn trí giữ yên xóm làng. Khi thi đấu người ta dùng gậy dài bảy thước (2,8m). Người vào đua tài mặc quần áo nâu, thắt lưng đỏ. Những người muốn vào dự thi đấu, từng cặp một phải đăng ký với ban tổ chức, đến lượt, từng cặp ra múa trình nghề. Trong khi thi đấu, cấm đánh vào thượng diện và trung bộ. Khi đối phương bị đánh trúng, nhưng người cầm trịch chưa kịp hồi chầu, đối phương bồi lại trúng ngay thì hòa.
Hội làng Đại Lan thể hiện truyền thống thượng võ. Các tay chơi từ Yên Mỹ, Yên Duyên (Thanh Trì), từ các làng Trung Quan, Chử Xá (Gia Lâm) đều tìm đến đua tài. Ngày nay, ở làng có ông Tạc, ông Uyên, ông Liên, ông Thụ, ông Hà đều là những người thuộc các bài siêu hoa, siêu cổ, bài côn, chấp thủ…
Trong ký ức của người dân, hội làng Miêng Hạ (xã Hoa Sơn, huyện Ứng Hoà, Hà Tây) được coi là hội pháo. Hội làng hàng năm tổ chức vào ngày mồng 4 tháng giêng. Tương truyền, ngày này, thần Cao sơn, vị thành hoàng làng thờ ở đền Thạch được dân tôn xưng là Đức Thánh cả cầm quân đi đánh giặc bảo vệ bờ cõi nước Văn Lang dưới thời vua Hùng thứ 18 đã giành thắng lợi, đem quân về Miêng Hạ mở hội khao thưởng.
Lễ hội khai mở vào giờ thìn, từ 7 đến 9 giờ sáng, bằng một tiếng pháo lệnh. Làng có 6 giáp chia phiên đến lượt giáp nào đăng cai tổ chức lễ hội năm đó thì ông trùm giáp được cầm trịch (cầm dùi) đánh 3 hồi trống và ra đốt ngòi pháo lệnh. ống lệnh bằng đồng, quả pháo nhồi thuốc nặng đến 30-40kg. Nghe tiếng pháo lệnh nổ thì từ ba nơi đền Thạch (của giáp Thạch, giáp Trù), đền Đông (của giáp Đông, giáp Tây), đền Thượng (của giáp Thượng, giáp Đình) sẽ nghênh kiệu về tựu ở đình. Mỗi nơi rước 2 cỗ kiệu, trong đó có một kiệu rước cây bông. Cây bông là vật làm bằng tre kết cấu hai tầng hình nón cụt, mặt trên đường kính 10cm, mặt dưới 40cm, xung quanh ken đều 36 thanh tre vót tròn dài khoảng 40cm vòng quanh mỗi thanh tre quấn giấy xanh, đỏ, vàng để tua. Tâm hình nón cụt là một ống tre dài khoảng 40cm, được định vị bởi hai thanh tre hình chữ thập ở mặt và khoảng gần hình chóp.
Các giáp rước các cỗ kiệu, trong đó có kiệu cây bông, về đặt trước cửa đình để tế lộ thiên vào giờ ngọ (12-1 giờ chiều) hay còn gọi là tế yến lộ thiên. Nghi thức tế rất long trọng. Điều hành cuộc tế là chủ tế và hai ông đông xướng, tây xướng.
Khởi đầu, xướng:
- Khởi chinh cổ tam thông (Nổi ba hồi chiêng trống).
Xướng tiếp:
- Nhạc âm, nhạc ti đồng khởi. (Dàn nhạc cùng đánh).
Xướng tiếp:
- Thiêu pháo.
Dứt lời, hàng loạt cây pháo của các hàng giáp và các gia đình thi nhau đốt tạo nên một không khí sôi động tiếng pháo mô phỏng tiếp sấm, loé ra ánh chớp và tưởng như dào dạt những trận mưa không dứt tưới xuống làm tốt tươi mùa màng.
Việc tế lộ thiên xong, trai đinh các giáp rước kiệu vào đặt trong đình. Những ngày sau đó các cụ tế, về chiều trai thanh gái lịch đi xem hát hay đánh võng trên cây đu tiên.
Sau này hội pháo tốn kém, làng không tổ chức nữa mà chủ yếu diễn trò ội ại.
Vui hội và tế lễ thần cho tới buổi tối ngày rã đám, khoảng nửa đêm, thì làng có tiết mục giải áo, nghĩa là mọi màn trướng ở đình đều hạ xuống. Sau đó, các quan viên vào làm lễ tạ. Cuối cuộc tế tạ là lễ tế tẩu mã. Khi ấy đèn đuốc trong đình đều đã tắt, trai đinh các giáp vào đình không ai nói cười, lặng lẽ đưa các cỗ kiệu ra khỏi đình. Ở ngoài, dân hàng giáp đón kiệu bằng những bó đuốc, thắp sáng áp giá về đền. Bấy giờ 6 cây bông của 6 giáp được một cụ già làng buộc túm vào một sợi dây, ròng qua một chiếc đinh ở chính giữa thượng lương đình. Đèn lại bật sáng, trai đinh các giáp vào đình cùng hướng mắt vào 6 cây bông treo lơ lửng ở gian giữa. Làng bắt đầu diễn trò ội ại.
Khi đèn đuốc trong đình vụt tắt thì một cụ già của làng cởi dây thả 6 cây bông treo ở thượng lương xuống. Bấy giờ trong đình tối như bưng, hầu hết chỉ có trai đinh của các giáp. Tuân thủ theo hèm của làng, họ phải cởi hết áo quần ra, chỉ mặc quần đùi (cụ già đóng khố), sau đó trai đinh miệng hô ội ại và lao vào cùng nhảy lên với cướp cây bông xuống. Một ai đó giật được cây bông xuống thì xé bông cướp lấy cái nõ bằng tre trong tâm cây bông chạy ra ngoài đình đem về đền của giáp. Kỳ ội ại, các đinh của giáp nào cướp được ba cái nõ cây bông, giáp đó tâm niệm trong năm làm ăn gặp nhiều may mắn.
Việc cướp được nõ trong đêm tối rất vất vả, bởi vì các trai đinh tranh nhau giằng xé. Ai đó không có may mắn cướp được nõ thì họ nhặt các thanh tre quấn giấy đem về nhà làm phước.
Trò ội ại ở làng Miêng Hạ còn gọi là trò cướp nõ xé bông. Ội ại là một từ hèm rất cổ chưa rõ nghĩa, nhưng về mặt ngữ âm phát ra từ cửa miệng trai đinh nó phản ánh động tác khi mạnh khi nhẹ, tiến tới (ội), lùi (ại). Còn cướp nõ xé bông thì thành ngữ tiếng Việt đã có câu "ba mươi sáu cái nõn (nõ) nường" ám chỉ mỉa mai ai đó đòi hỏi những điều quá đáng bắt nguồn từ một tục cổ ở miền Dị Nậu và Khúc Lạc (Phú Thọ). Xưa, dân làng làm các vật tượng trưng giống đực (nõn), giống cái (nường) bằng gỗ và những người khiêng kiệu rước thần vừa đi, vừa hát: "Ba mươi sáu cái nõn nường cái để đầu giường cái để đầu tay". Khi kiệu đến nơi thờ, người ta tung nõn nường cho mọi người cướp. Ai được, coi là điềm tốt. Có điều, ở hội làng Miêng Hạ, trò ội ại cướp nõ xé bông không thấy xuất hiện chữ nường mà chữ này đã thay thế bằng chữ bông. Con số 36 đã biến dạng ở Miêng Hạ chỉ có 6 nõ và mỗi nõ được chụp một bông có 36 thanh tre quấn giấy để đầu tua. So với một số nơi có tín ngưỡng phồn thực, trò ội ại ở Miêng Hạ vừa có cướp nõ như ở Dị Nậu (Phú Thọ), vừa có tục tắt đèn như ở hội Giã La (Hoài Đức) vừa có tiếng hô ội ại mà ở vài nơi hô là tùng dí như ở hội làng Vi Cương và Triệu Phú (Vĩnh Phúc) nhưng nét độc đáo ở hội làng Miêng Hạ là trai đinh cởi trần đóng khố cướp nõ xé bông. Phải chăng tục ấy ánh xạ cái thời người nguyên thuỷ đóng khố cởi trần diễn lễ mà sau này người dân vô thức diễn lại.
Bản thân hình cây bông dù đã cách điệu hoá và dân làng Miêng Hạ duy trì tục hèm nhưng không thể cắt nghĩa nổi bản chất của trò ội ại nên giải thích theo suy đoán chủ quan là cây vàng cây bạc và diễn tục cướp vàng cướp bạc. Hình cây bông thực chất là hình ảnh tượng trưng của hai vật âm - dương.
Trai đinh các giáp cướp được nõ lấy làm phấn khởi lắm. Họ mang về thành kính dâng nõ lên bàn thờ thổ thần của giáp ở đền. Sau một hồi tế tạ, họ mang nõ ra hoá (đốt thành than) trước sự reo vui của dân hàng giáp. Ai cũng đều tâm niệm năm đó giáp mình làm ăn gặp nhiều may mắn.
Trò ội ại, trong hội lễ làng Miêng Hạ chính là tâm thức của quần chúng mong trong ngày hội đầu năm của làng âm dương hòa hợp để không ngừng sinh sôi phát triển cho dân an vật thịnh, phồn thực mãi cùng với tiếng pháo cầu mưa, cầu sự mát lành mang đậm dấu ấn của một lễ nghi nông nghiệp cổ ở vùng châu thổ sông Hồng.
Những năm gần đây, trò ội ại ở làng Miêng Hạ được diễn lại thành một trò vui rất sinh động trong ngày hội mang thêm ý nghĩa mới là dân làng cướp vàng cướp bạc lấy may thu hút khách thập phương tới xem và tham gia một sinh hoạt văn hoá độc đáo ở Hà Tây.
Hội thả diều làng Bá Giang ở xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, Hà Nội diễn ra vào ngày rằm tháng ba âm lịch. Hội thả diều này gắn với "tiệc" ông Nguyễn Cả, một danh nhân của làng, nguyên là tướng giỏi của Đinh Tiên Hoàng. Sau khi từ quan ông về quê dạy dân trồng trọt, mở mang cơ nghiệp. Về cuối đời, ông sống cảnh điền viên và bày những trò vui thanh cao, trong đó có chơi diều cùng đám trẻ mục đồng. Một hôm, trên gò đất ông hay cùng mọi người chơi diều, bỗng Hầu Công xuất hiện. Ông cúi đầu làm lễ kính cẩn. Sau đó ông hóa cúng đám mây ngũ sắc. Nhân dân tiếc thương lập miếu thờ ông Nguyễn Cả ngay ở gò đất này. Đây cũng là địa điểm hằng năm mở hội thả diều.
Tháng ba mới là hội thi, nhưng từ tháng tám năm trước, trong làng đã rục rịch làm diều. Người ta chọn tre, mua giấy, khoét sáo, chuốt dây... rất tỷ mỉ, công phu. Xưa kia, dây diều làm bằng tre bánh tẻ vót chuốt đều, nối dài, rồi cuộn lại ngâm vào nước quả cây chuối hột và muối, rồi ninh sôi trong nồi ba mươi cả một ngày, thành dây vừa dai vừa mềm. Làm sáo diều bằng cách dùng nan tre đan thành ống, dùng sơn ta đun mà gắn với miệng sáo khoét bằng gỗ vàng tâm. Chiếc sáo vừa nhẹ, lại có tiếng vừa thanh, vừa ấm. Giấy dán diều bồi bằng giấy bản. Thời nay, dây diều là dây ni-lông, diều càng nhẹ càng dễ bay cao.
Mở màn hội thi thả diều là lễ rước bánh dày tưởng nhớ thần nhân. Sau đó, cuộc thi diều bắt đầu. Một người khéo tay nhất làng được cử làm chiếc diều tượng trưng to nhất, dài 5m, rộng 1,5m dán giấy hồng điều, trên cánh diều có đề bài thơ:
Gió hát trăng thanh hồn non nước
Sải cánh diều bay nhạc sáo ngân
Khi thiêng tướng Cả lưu truyền thống
Anh hùng rạng rỡ sáng lòng dân.
Mở đầu cuộc thi là lễ trình diều. Mọi người dự thi đều mang diều đến trình trước cửa Miếu. Mỗi năm có dăm, sáu chục người dự thi, ngoài người Bá Giang, còn có người Hạ Mỗ, Tân Hội, Liên Trung... Diều dự thi có thể dài đến 3m, nhỏ thì cũng dài tới 1m.
Hội diều diễn ra chừng hai tiếng đồng hồ thì một số diều bị đứt dây, tự loại khỏi cuộc thi. Số diều đạt đến tầng cao và bay đậu giữa trời đã giảm dần. Vào giai đoạn chung kết chỉ còn mươi chiếc diều. Ban tổ chức hội thi tập trung ở đền Châu Trần, ngay cạnh miếu Bá Giang. Những người ứng thí lùa dây diều vào buộc ở hàng cột trước cửa đền Châu Trần. Các giải nhất, nhì, ba trao cho những người có diều bay cao, không chao đảo và có tiếng sáo hay nhất. Sau khi người trúng giải đem phần thưởng vào lễ tạ nhân thần, hội thi kết thúc.
Vậy nhưng, những con diều vẫn còn bay đến tận đêm khuya. Làng Bá Giang trong đêm trăng với tiếng sáo diều thật thanh bình, thật thương mến...
Mọi sự chuẩn bị cho ngày hội được tiến hành từ đầu năm. Ngày mồng 9-3 là ngày mở đầu cho lễ hội. Nghi thức quan trọng nhất của ngày hôm đó là đám rước Thánh từ miếu xuống đình. Sau khi tế lễ ở đình, làm lễ cáo yết ở miếu là rước ngai của Thánh về đình. Đám rước long trọng với đủ lệ bộ và nghi trượng cùng những vị có trọng trách trong ngày hội với đông đảo dân làng. Đám rước đi theo đường làng từ miếu Thượng về đình. Tới đình, kiệu của ngài đặt ở chính ngự ngoài. Sau đó, các tay đô cùng bô lão rước ngai của ngài vào đình và ngự tại đó.
Ngày hội bắt đầu bằng cuộc tế lễ long trọng của hội đồng bô lão trong làng. Mọi nghi thức tế lễ được thực hiện từ chính ngự trong qua quãng sân trước cửa đình vào đến trong đình. Các bước tế lễ của mỗi tuần tế đều bắt đầu từ chính ngự trong vào đình. Trong lúc các bô lão tiến hành tế lễ, trong đình ở hai gian cạnh có trải sẵn chiếu để khách thập phương và bà con dân làng chuẩn bị dâng lễ lên bàn thờ Thánh. Người ra vào nườm nượp với đủ các loại lễ vật…
Một hồi chiêng trống nổi lên, một số trai kiệu cùng các cụ rước ngai thánh từ trong đình ra chính ngự trong. Kiệu đi thẳng từ chính ngự trong qua chính ngự ngoài tới đường làng trước ao đình. Tới trước cửa Thủy đình, kiệu hạ xuống, các trai kiệu cùng các cụ rước kiệu vào đặt tại bệ giữa nhà Thủy tạ, cờ quạt, chấp kích được đặt trước mặt kiệu thánh, hướng mặt ra sông. Một hồi chiêng trống nổi lên, pháo ở nhà Thủy tạ, hai bên bờ sông và trong đình được đốt nổ giòn giã báo hiệu ngài đã an vị.
Hiệu lệnh chuẩn bị đua thuyền là khi tiếng chiêng, trống và tiếng pháo nổ giòn giã lúc kiệu thánh đã an vị ở Thủy tạ. Các thuyền đua ở các ngả từ từ tiến vào gần Thủy tạ trong tiếng reo hò vang dậy của người dân 3 thôn cổ vũ cho thuyền đua làng mình.
Ba thôn Thượng, Trung Hạ, mỗi thôn có hai thuyền đua. Xưa có thêm một thuyền thứ 7 gọi là thuyền quan. Thuyền quan không đua mà chỉ làm nhiệm vụ bơi theo quan sát cuộc đua. Thuyền đua dài tới 15 m gồm 18 trai bơi và 6 người khác là ông lái (người lái thuyền), ông dô (người bắt nhịp, chỉ huy), ông phất cờ, ông phất cờ, ông cầm lạng (người cầm sào, một đầu có móc sắt hình chữ U để chống và đẩy thuyền khi thuyền sát vào thuyền khác), một người tát nước và một trọng tài có nhiệm vụ chỉ huy ngồi theo dõi các trai bơi và những người trong thuyền không được vi phạm các luật lệ quy định. Trai bơi được chọn trong độ tuổi từ 20-35 có kinh nghiệm và khỏe mạnh. Mỗi cuộc đua được tiến hành qua 6 vòng. Sáng ngày 10-3 bơi hai vòng, chiều một vòng. Ngày 11-3 bơi ba vòng và kết thúc hội bơi, trao giải. Thuyền được giải có vinh dự chở ngai của Thánh từ Thủy tạ về miếu Thượng. Khác với các lễ hội bơi chải khác, ở Lễ hội bơi Đăm công tác tuyển chọn khá khắt khe: các tay bơi phải có độ tuổi 29-35, mạnh khỏe, tư cách đạo đức tốt. Trai bơi sẽ được nhân dân đóng góp trong xã nuôi ăn trong 20 ngày trước lễ hội. Hội bơi Đăm được tổ chức trên dòng sông Nhuệ đoạn chảy qua xã Tây Tựu. Trước đó, hai bên bờ sông được thực hiện tổng vệ sinh, giải phóng các hàng quán trái phép hai bên bờ, khai thông dòng chảy. Đồng thời, trong những ngày diễn ra đua thuyền, trên mặt đất diễn ra những trò thả chim, thi cờ người, chọi gà.
Lễ hội bơi Đăm truyền thống nhằm phát huy những truyền thống tốt đẹp, lâu đời chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước, bảo vệ đất nước, ghi nhớ công lao to lớn của các anh hùng dân tộc, các thế hệ cha ông, những người có công với nước với dân, kế thừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa lịch sử truyền thống, trong sáng và quý giá, giáo dục con người phát huy những bản chất tốt đẹp, uống nước nhớ nguồn, sống thủy chung, tình nghĩa. Lễ hội được tổ chức là nguồn cổ vũ động viên mạnh mẽ, thắt chặt tình đoàn kết tôn vinh màu sắc làng hoa Tây Tựu trên mảnh đất nghìn năm văn hiến.
Vân Sa là một thôn nằm ven sông Hồng, trên một dải đất phù sa màu mỡ thuộc xã Tản Hồng, huyện Ba Vì, Hà Nội. Lễ hội Vân Sa hàng năm tổ chức vào hai ngày mồng 4 và mồng 5 tết để tưởng nhớ tới công đức của liệt nữ Ngũ Nương và Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn. Trung tâm lễ hội là đình và miếu của làng.
Ngày mồng 4, đội kéo quân của làng do ông lý trưởng cưỡi một con ngựa dẫn đội quân gồm 12 - 14 đinh, mặc giả quần áo lính. Đi trước đội kéo quân có một người vác cờ, một người cầm trống bỏi, cuối đội hình là người vác loa. Đội kéo quân đi dọc ngõ làng vào ngõ xóm đánh trống, rao loa thông báo về việc làng tổ chức hội trò chiềng, thúc giục các giáp có trách nhiệm tham gia nghiêm cẩn theo tục lệ của làng. Ngày mồng 5 chính hội dân chúng các nơi nô nức kéo nhau về xem hội.
Bắt đầu từ sớm mồng 5 tết, 8 giáp trong thôn tự nguyện cứ hai hoặc ba giáp liên kết với nhau thành một đám rước. Năm nào phong đăng hòa cốc thì trong 8 giáp có đến bốn hoặc năm đám rước, chí ít cũng có đến ba đám rước. Các giáp tổ chức rước kiệu cỗ, bao gồm oản, quả, xôi, gà, cau, trầu, rượu, hoa ra bày cỗ ở gian giữa đình. Sau đấy, làng tổ chức một đám rước mang kiệu bát cống (8 người khiêng) vào nhà cụ hay chữ nhất làng, xin bản văn tế rước ra đình để tế các vị thần, gọi là rước văn.
Suốt buổi sáng hôm đó các cụ thành kính tổ chức các cuộc tế lễ trước anh linh các vị thành hoàng làng.
Phần hội diễn ra vào buổi chiều, lúc bấy giờ các giáp từ các xóm tổ chức rước kén ra đình. Hội rước kén rất tấp nập, có rước bông, múa linh và trò tứ dân lạc nghiệp. Trò tứ dân lạc nghiệp rất hấp dẫn, người diễn đóng giả tứ dân sĩ, nông, công, thương.Trò tứ dân lạc nghiệp diễn ra ở sân đình Vân Sa vào lúc chạng vạng tối tức từ 4 đến 6 giờ tối. Đầu tiên đội kéo quân do lý trưởng cưỡi ngựa dẫn đầu trình diễn đội hình trước thành hoàng làng ra mắt dân thôn quanh sân đình. Người cầm loa đi sau cùng tiếp tục rao chương trình diễn trò. Giây phút linh thiêng nhất là cả đám hội chờ đợi cửa miếu Nhà Bà mở, để trai đinh của làng rước ảnh Đức Thánh Bà ra sân đình. Bức ảnh Thánh Bà Ngũ Nương, có công đánh giặc, cương nghị cưỡi trên mình ngựa. Người rước ảnh liệng qua liệng lại ba vòng thì ảnh Đức Thánh Bà được trịnh trọng rước trả lại yên vị trong cung miếu thờ. Sau đấy, một bên cổng đình bật mở để đám rước kén thứ nhất vào sân. Mọi người vừa đi vừa nhảy múa diễn trò quanh sân đình ba vòng rồi thoát ra bằng một lối ở cổng đình phía đối diện. Xưa kia, khi cây sào gắn dàn kén ra khỏi đình, dân thôn đưa dàn kén lên một gác gỗ gá buộc chắc chắn. Từ trên đó người ta sẽ lắc mạnh để kén rơi xuống phía dưới, mọi người đi hội tranh nhau cướp. Ai cướp được nhiều kén tâm niệm năm đó làm ăn gặp nhiều may mắn. Ngày nay, người vác kén ra khỏi sân đình thì lắc mạnh cây sào cho con kén rơi để người đi hội tranh cướp.
Đám rước kén thứ nhất ra rồi, dân làng lại mở cửa đình để đám rước kén thứ hai vào diễn trò tứ dân lạc nghiệp tương tự như đám rước thứ nhất. Lần lượt thế cho tới đám rước cuối cùng.
Ngày nay, dân làng Vân Sa gọi trò trên là trò triềng với nghĩa trình diễn các nghề của tứ dân, nhưng xa xưa hơn được gọi là trò chiềng đồng nghĩa với trò vui của làng.
Đáng chú ý là ở trò triềng có tục rước kén và cướp kén. Một số cụ già đáng tin cậy nói rằng: trò rước kén và cướp kén mới chỉ xuất hiện vào những thập niên đầu thế kỷ 20, còn trước đó cha ông người Vân Sa gọi là rước nõ và cướp nõ. Mọi người quan niệm đó là tục hèm của làng định kỳ phải mở, nếu xao nhãng, không làm, dân sinh năm ấy sẽ ít gặp may.
Lễ hội Vân Sa là lễ hội làng nghề khá đặc trưng, cũng là lễ hội gắn liền với tín ngưỡng phồn thực của dân cư nông nghiệp. Tục rước bông, rước nõ và rước ảnh bà Ngũ Nương thể hiện sinh động nguyên lý Mẹ và tín ngưỡng sinh sôi nảy nở của người Viêt.
Đền Bà Tấm thuộc xã Dương Xá, huyện Gia Lâm ngoại thành Hà Nội, xưa thuộc trang Thổ Lỗi, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh. Dương Xá gồm ba thôn là Dương Đình, Dương Đá và Dương Đanh (Tam Dương), xưa nữa là ba ngõ trong một làng, đền Bà Tấm nằm trên đất của thôn Dương Đá . Trước đây riêng Dương Xá là một xã, nhưng nay hợp với Thuận Quang và Yên Bình thành xã Dương Xá mới. Hàng năm vào đền mở 2 kỳ hội vào ngày 19 tháng 2 và 25 tháng 7 âm lịch, tương truyền đó là ngày sinh và ngày mất của Bà. Ngoài ra vào các dịp xuân thu, những ngày sóc vọng đều có lễ trong đền.
Xưa kia hội đền bà Tấm rất lớn, không phải chỉ có Dương Xá và Thuận Quang tổ chức, mà cả tổng Dương Quang cũ (gồm chín xã suốt từ Sủi (Phú Thị) cho tới Văn Lâm (Hảí Hưng) và những làng cấy ruộng hậu của đền. Trong đền còn giữ được tấm bia ghi rõ tên các làng cấy ruộng hậu của đền với số lượng cụ thể. Do hội khá lớn, nên thường phải năm năm mới tổ chức một lần. Hội cuối cùng, theo trí nhớ của dân làng, được tổ chức vào năm 1939. Trước đây chính hội là từ 19 đến 22 tháng 2 âm lịch, nhưng thực chất người ta đã rục rịch từ ngày 16 và đến tận 25 tháng 2 mới hết hội. Ngay từ tiệc đầu xuân, dân làng đã tụ hội tại đền để chuẩn bị hội xuân tế lễ cẩn cáo với Bà, mong phù hộ cho làng. Dân làng chọn cử các tiên chỉ, tổng cờ, ban tế cùng các việc khác cho ngày hội.
Hội ngày 19-2 được mở đầu bằng một đám rước long trọng - rước nước. Đám rước khởi hành từ đền Bà Tấm lên tới giếng nước cạnh chùa làng Sủi (Phú Thị) cách đền khoảng 2km. Đi đầu đám rước là cờ ngũ hành, tiếp đến là Tổng cờ, rồi đến chiêng, trống, bát bửu. Liền sau đó là long đình rước bà Ỷ Lan (bài vị), có những người phục dịch theo kiệu. Đường đi từ đền theo đường 179 ngày nay lên Sủi. Sau kiệu Bà là kiệu đựng chóe dùng lấy nước. Các cụ già còn nhớ trước kia trong đền có một chiếc chóe bằng sứ Nhật Bản rất cao và to, nhưng nay đã bị mất. Ngoài ra là kiệu của các thôn thuộc Dương Xá và tất cả các làng cấy ruộng nhà đền. Do vậy mà đám rước rất lớn và dài, bởi vì ruộng đất lộc của bà trải rộng tới tận Nghĩa Trai, Bình Trù, Liên Mỹ. . . Bà cũng được coi là Mẫu nghi thiên hạ. Do qui mô của đám rước dài và lớn như vậy nên nó kéo dài tới bốn năm tiếng đồng hồ mới rước được nước về tới đền.
Trong lúc diễn ra cuộc rước nước thì từ các thôn cũng tiến hành rước lễ vật ra đền để tế lễ. Sau khi kiệu Bà và nước được đưa vào đền yên vị, cuộc tế lễ bắt đầu. Các bô lão năm thôn được cử vào ban tế tiến hành kiểm tra lễ vật rất nghiêm ngặt. Lễ vật để tế lễ trong ngày hội hoàn toàn là trầu, rượu. Từ xa xưa năm nào cũng vậy, có chăng thêm thì chỉ có bánh gai, bánh mật mà thôi.
Tương truyền việc làm oản xôi thờ cũng phải rất tinh khiết. Phải dùng nước ở giếng Quán Đôi, đầu thôn Dương Đình, gánh về nhà trước đó ba bốn ngày để thật trong, khi đó mới đem ra vo gạo và thổi xôi, như vậy mới đảm bảo độ tinh khiết. Sau khi đã xem xét lễ vật một cách kỹ lưỡng, cuộc tế lễ bắt đầu.
Sau cuộc lễ chính thức của các cụ trong hội đồng, ra vào không ngớt là các cuộc dâng lễ của dân làng và khách thập phương. Ngày hội đầu tiên kéo dài cho đến khuya trong không khí nghiêm trang tại đền cùng các cuộc vui ngoài sân và khu vực xung quanh. Tương truyền sau khi tế lễ xong ngày hôm đó cũng như buổi hôm sau, lễ vật được chia ra làm đôi, riêng Dương Đá (là nơi sinh ra Bà) được một nửa, nửa kia mới được chia cho các thôn còn lại trong xã. Riêng ông chủ tế được biếu 60 phẩm oản và 60 quả chuối.
Tại bãi Xây ở trong đền, ngày trước rất rộng và cây cối um tùm, mát mẻ, là nơi diễn ra cuộc đấu cờ người. Người đẹp nhất được chọn làm tướng. Mỗi quân cờ đều có một chiếc ghế đầu để ngồi. Riêng tướng cờ được che thêm một chiếc lọng. Người chơi đánh nước nào thì người đóng vai quân cờ chuyển chỗ theo nước đánh. Cứ như vậy ván cờ diễn ra căng thẳng với sự đấu trí của người chơi, nhưng lại hấp dẫn người xem không chỉ vì các nước cờ tài ba mà còn bởi các màu sắc và sự thanh tú của các nam nữ đóng quân cờ. Cuộc đánh cờ phân thắng bại cho các địch thủ kéo dài cho tới hết hội. Đến cuối hội người ta mới xác định rõ người thắng và trao giải cho người nhất cuộc.
Mỗi năm hội đều có phường hát ở các nơi đến đăng cai hát giữ cửa đền, suốt từ 19-2 đến hết hội. Thường các phường hát đến xin, địa phương tín nhiệm phường nào thì cho phép họ tới hát giữ cửa đền cho đến khi rã đám mới thanh toán tiền cho họ. Ngoài ra các phường chèo, tuồng khác cũng đến góp vui cho hội thêm sôi nổi.
Trong hội còn có các trò chơi khác như: tổ tôm điếm, đấu vật, chọi gà, đốt pháo và thời pháp thuộc có cả hát cô đầu. . . Cứ như vậy lễ hội đền bà Tấm kéo dài cho đến hết ngày 21 tháng 2 âm lịch. Ngày 22 tháng 2 là ngày tế rã đám và kết thúc hội. Cũng vào ngày đó các giải vật, giải cờ mới phân ngôi nhất nhì và làm lễ trao giải .
Những năm gần đây, hội đền Bà Tấm ngày càng trở thành một lễ hội lớn. Khu vực đền đã được tu sửa khang trang hơn, đẹp hơn. Ngày hội được sự tổ chức khá chu đáo của chính quyền địa phương và nhân dân trong xã. Nhiều trò vui dân gian được khôi phục lại như tổ tôm điếm, chọi gà. . . Vì vậy khách đến hội mỗi năm một đông thêm.
Đền Măng Sơn là đền cổ thờ Đức Thánh Tản Viên của cả tổng Tường Phiêu xưa. Tương truyền: Đức Tản Viên từ núi Ba Vì đi thăm thú các nơi. Một hôm, ngài đến đất Sơn Đông, thấy cảnh sắc nên thơ, nhân dân đôn hậu, đời sống lại khá giả, liền ở lại, cho lập một cung điện ở đồi Măng Sơn .Nhân dân quanh vùng học được nghề săn bắt của ngài nên nhiều người săn bắt chim muông rất giỏi. Sau ngày ngài rời quê hương, dân làng nhớ công lao lớn đó, lập đền thờ và tổ chức lễ hội hàng năm ở đền Măng Sơn. Hội đền Măng Sơn từ ngày mồng 6 đến mồng 12 tháng Giêng.
Vào ngày hội, 5 xã trong tổng gồm: Sơn Đông, Sơn Trung, Tường Phiêu, Trạch Lôi, Thuần Mỹ cử các đại diện mang lễ tập trung ở đỉnh Sơn Trung. Lễ vật là một hộp quả hình lục lăng chồng 8 tầng do 4 người khênh.
Trai đinh các xã về đông đủ ở đình Sơn Trung, các cụ cắt cử họ rước 3 cỗ kiệu trong đặt long ngai bài vị của Tam vị Đức Thánh Tản (Tản Viên, con ông bác và hai anh em Cao Sơn, Quý Minh, con ông chú) lên đền Măng Sơn. Cứ 8 người đóng một kiệu, đi ngoài một người cầm lọng, một người cầm cờ múa dẫn đường, một người đánh trống khẩu dẹp đám, thành một cỗ. Riêng kiệu Thánh Tản Viên có thêm hai quạt vả lớn che hai bên. Đây là 3 cỗ kiệu hiếm có ở trong vùng. Việc trang trí quần áo cho 3 cỗ ngai cũng khá đặc biệt. Cả Tam vị đều đội mũ Kim Ngạc, quần áo vóc trắng, choàng áo vóc đỏ, ngoài là áo hoàng bào màu hoàng yến, thắt đai lưng cổn long, đi hia hổ túc. Mỗi năm rước kiệu các ngài là dịp để nhân dân chiêm ngưỡng vẻ đẹp lỗng lẫy, cao siêu của dung nhan các vị do nhân dân tưởng tượng sáng tạo ra.
Một nghi lễ lớn bày tỏ tấm lòng thành kính của dân thôn toàn tổng được tổ chức tại đền. Các xã đều có đại diện vào tế. Chủ tế là một cụ già của làng Sơn Đông. Bên cạnh chủ tế là ba bồi tế, một đọc văn, năm người dẫn rượu, năm người dẫn đèn. Thường là người cao tuổi, vợ chồng song toàn, con cháu đầy đặn, lại có phẩm hạnh mới được chọn làm vai tế. Người dân Sơn Đông quan niệm việc tế là rất hệ trọng, ảnh hưởng đến phúc lành của mọi nhà nên không thể tùy tiện chọn người vào vai tế.
Điều đáng lưu ý là có một mâm ngũ quả dâng lên thờ thần, trong đó bày các thứ quả sẵn có trong vùng. Nhất thiết là phải có mít xanh, ở Sơn Đông có loại mít ra quả sớm, dân gọi là mít chiêm. Sau quả mít là quả dứa non, quả bưởi, quả chuối, quả cam hoặc quả quít…
Lại nữa, một mâm cỗ khác tế thần không thể thiếu thú rừng. Tương truyền: Xưa kia là loại thịt thú rừng săn bắt được để khô. Sau này, việc săn bắt thú rừng khó người ta thay thế bằng ba miếng thịt lợn sống. Quá trình cử tế, ông chủ tế thay mặt cộng đồng, diễn lại nghi thức dân làng hưởng lộc do Đức Thánh Tản săn bắt được thú cho dân. Khi văn tế đọc đến câu ẩm phước, chủ tế dừng lời, trân trọng nâng chén nhà ngài nghiêng người sang một bên giả uống. Đến đoạn thụ tộ thì ông thành kính nâng chén đặt vào mâm lễ. Văn tế đọc tiếp đến thù tạc, chủ tế dùng đũa gắp lật đi lật lại 3 miếng thịt coi như đã hưởng lộc ngài.
Cuộc tế thần ở đền Măng Sơn xong, 1 giờ chiều, dân hàng tổng rước ba cỗ kiệu từ đền về bãi dộc Thày, hạ kiệu xếp ngay ngắn, sau đó toàn dân tỏa ra bãi tổ chức các sinh hoạt vui chơi của ngày hội. Tại đây, nam nữ hát ví đúm giao duyên. Các đô vật của các xã tham gia vật giải. Ngoài bãi có bắn nỏ, đánh đu cây. Cuộc vui chơi suốt chiều hôm đó. Tối đến đốt đuốc ca vui đến nửa đêm, sang đến giờ Tý (quá nửa đêm) mới tổ chức rước kiệu ba ngài về đình. Đèn đuốc sáng trưng. Dọc đường về qua xóm có cây đa ở cổng làng đã trồng sẵn cây đuốc lớn (gọi là cây đình liệu), tiếp lửa đốt lên để đón kiệu ngài cho đám rước càng lung linh, huyền ảo.
Truyền rằng: Dân làng làm vậy để diễn lại sự tích Đức Thánh Tản đi săn, diệt được thú, nghỉ đêm ở bãi Thày, dân các xã mang rượu tới ca hát, vui chơi mừng thắng lợi
Rước về đến đỉnh Sơn Trung, đưa các ngài vào yên vị, lễ hội Tản Viên chưa chấm dứt. Các bô lão trong làng còn phải tế trực vào các buổi tối đến ngày 12 tháng giêng âm lịch mới tế giã.
Ấy là hội ở đình Sơn Trung.
Sang ngày 8 tháng Giêng, dân làng Sơn Đông cũng diễn lại hội Thánh Tản như hôm 6 tháng Giêng nhưng không dừng ở bãi Thày mà về thẳng đình, quy mô cũng nhỏ hơn.
Tóm lại, lễ hội Tản Viên xưa kia ở xã Sơn Đông rất lớn, mang màu sắc riêng của một vùng, đặc biệt nghi thức rước đêm để lại dấu ấn khó phai mờ với ai đó đã một lần dự hội ở Sơn Trung, qua đó phản ánh niềm tự hào của nhân dân về truyền thống văn hóa ở địa phương.
Làng Tạ Xá thuộc xã Đại Thắng, huyện Phú Xuyên, Hà Nội. Lễ hội cổ truyền xưa được tổ chức rất trọng thể từ ngày 10 đến 15 tháng 3 âm lịch. Trong lễ hội đã diễn ra nhiều cuộc thi tài giữa các làng, trong đó thi gà, thi gạo, thi bánh chưng. Từ sau cách mạng Tháng Tám và những năm chiến tranh, hội làng bị gián đoạn không tổ chức được. Khoảng chục năm lại đây, Tạ Xá đã khôi phục lại hội làng tháng 3, lễ hội diễn tra trong 2 ngày 11 và 12 thàng 3 âm lịch hàng năm, được dân làng và người xa quê nhiệt tình hưởng ứng, với tinh thần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của cha ông.
Lễ hội gồm 2 phần lễ và hôi.
Phần lễ diễn ra rất trang nghiêm, sáng 11 toàn thể dân làng rước kiệu lên miếu để rước thánh về đình tế lễ, sáng 12 tiếp tục tế thánh, sau đó rước thành về miếu.
Phần hội được tổ chức đan xen với phần lễ, kết hợp giữa truyền thống và hiện đai. Nhiều trò thi truyền thỗng của lễ hôi xưa được khôi phục lại như thi gà và thi bánh chưng.
Ba hộ được chọn thi gà: Mỗi hộ một con gà sống thiến khoảng 2kg được làm cẩn thận, gà luộc chín, da bóng mịn, cánh xòe cánh phượng, miệng ngậm bông hồng chúm chím nở đỏ tươi.
Ba hộ thi bánh chưng: Mỗi hộ gói 21 chiếc. Bánh chín rền cân nặng bình quân 1,1kg một chiếc. Bên ngoài vuông thành sắc cạnh, trong chín rền, cắt ra phần gạo, nhân đậu, thịt cân đều so với các cạnh, các góc. Ban giám khảo chấm thi gà và bánh chưng khá kỹ càng, phân loại nhất, nhì, ba. Gà đạt giải nhất được tiến dâng lễ thánh. Gà và bánh chưng, sau tế lễ, được chia đều cho các mâm cỗ liên hoan chung để mọi người đều được hưởng lộc thánh.
Trò thi hiện đại khá phong phú và hấp dẫn người xem. Trầm ngâm, lặng lẽ là đấu cờ tướng. Sôi nổi, hào hứng là các trò thi kéo co, bắt vịt dưới nước, bơi thuyền, đi cầu phao, chọi gà và mới nhất, sôi nổi nhất là thi “nhảy bao múc nước”.
Lễ hội làng Tạ Xá là một lễ hội tiêu biểu ở vùng phía bắc huyện Phú Xuyên. Không chỉ mang ý nghĩa giáo dục tinh thần nhớ về tổ tiên cội nguồn, lễ hội làng Tạ Xá còn thắt chặt tình đoàn kết hướng về quê hương, vì quê hương mà xây dựng quê hương ngày càng đổi mới.
Hàng năm vào ngày 12 tháng Giêng, ba thôn: Đào Nguyên, Ngự Câu và An Hạ thuộc xã An Thượng, huyện Hoài Đức, Hà Nội lại tổ chức lễ hội truyền thống đình để tưởng nhớ đến công lao to lớn của các vị thành hoàng. Lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa của làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Theo thần phả thì đình làng An Hạ xưa kia thờ gia đình cụ Đỗ Thiện. Ông là một cựu thần thuộc triều vua Thục Phán An Dương Vương. Năm Đinh Hợi, 214 trước Công nguyên, khi giặc Tần xâm lược nước ta, ông Đỗ Thiện cùng hai người vợ và chín người con đã tham gia đánh giặc. Sau khi giành chiến thắng tại vùng Lĩnh Nam, nhà vua đã mở lễ mừng công và phong chức “vương” cho gia đình ông. Sau này, gia đình ông được nhân dân suy tôn làm Thành hoàng đình Đụn.
Theo thần phả ghi lại, Thành hoàng thôn An Hạ nay là bà Đỗ Thị Bảo, con gái Thái công Đại vương Đỗ Thiện. Sau khi chiến thắng giặc ngoại xâm, bà được vua phong tước “Huyền Vũ phong tư đệ lục vị công chúa”, nay còn có bài vị tại đình.
Phần lễ của lễ hội diễn ra trang nghiêm gồm lễ rước kiệu thánh và lễ dâng hương. Điều đặc biệt của lễ hội đình An Hạ là lễ rước từ đình làng ra quán. Do điều kiên giao thông thành phố, nên thường thì 5 năm 1 lần hội làng mới tổ chức lễ rước.
Lễ rước gồm năm kiệu, mỗi kiệu do hơn 20 thanh niên trong làng được tuyển chọn khiêng. Năm chiếc kiệu gồm: kiệu thánh để bài vị, kiệu văn, kiệu hoa, kiệu oản và kiệu hương. Sau khi đến đạo quán, các chiếc kiệu được đặt tại đó. Đại diện những người cao tuổi trong thôn do một người làm chủ tế tổ chức tế lễ thánh, dâng hương. Đến chiều, năm chiếc kiệu lại được rước về đặt tại sân đình. Trong khi lễ rước diễn ra, nhân dân hai bên đường đã lập các ban thờ để lễ thánh phía ngoài cửa nhà mình.
Phần hội còn có rất nhiều những trò chơi dân gian như mở chiếu chèo, cờ người… thu hút đông đảo bà con tham gia.
Có thể nói, đây là một trong số những lễ hội đình làng đặc sắc của khu vực đồng bằng Bắc bộ. Nó mang đậm giá trị văn hóa làng xóm của người dân Việt Nam cần được bảo tồn và phát huy.
Làng Giàn là tên nôm của thôn Cáo Đỉnh, xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm. Hội mở từ 9 - 11/2 âm lịch hàng năm, thờ tướng Lý Phục Man thời Tiền Lý (544-555) có công lập nhà nước độc lập Vạn Xuân.
Hội mở đầu bằng cuộc rước nước từ chiếc giếng cổ truyền có từ thời Hai Bà Trưng về đình để tiến cúng thần hoàng. Ngày thứ 2 rước kiệu Ông, kiệu Bà sang chùa Thiên Phúc dâng hương.
Hôm sau, lại rước hai kiệu ra miếu Mẫu (mẹ Lý Phục Man) rồi rước trở lại đình. Mỗi kiệu có 16 người khiêng, nam rước kiệu Ông, nữ rước kiệu Bà, chạy tịnh một tuần trước khi vào hội.
Khi rước, kiệu Ông đi trước, kiệu Bà đi sau, có phường bát âm, đội sênh tiền - mõ lộn, múa bồng, múa mặt nạ, múa tử linh đi trước dọn đường.
Giữa đường rước, hai kiệu bỗng dừng lại, xoay tròn, lát sau mới rầm rầm chạy về phía trước, tương truyền trên đường rước, kiệu ông cứ xoay nhìn các cô gái kiệu Bà không chịu đi vì ghen.
Hội Giàn còn có đấu “cờ người”, quân cờ là những cô gái làng xinh đẹp thủ vai. Ngoài ra, còn có các trò vui, các cuộc thi đấu võ dân tộc.
Lai Tảo là một làng cổ thuộc Xã Bột Xuyên, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Tương truyền, sau khi giúp Hai Bà Trưng đánh quân Nam hán, thắng trận trở về 3 vị Đại Vương (Đệ nhất Đại vương Cao Quế Minh thượng đẳng thần, Đệ nhị đại vương Cao Tuấn trung đẳng thần, Đệ nhị đại vương Cao Châu Pháp trung đẳng thần) du xuân ở lễ hội chùa Hương đã qua miền Cảo Trang (tên gọi của Làng Lai Tảo trước đây), nơi cha mẹ 3 vị đã nghỉ lại trong dịp đi cầu tự ở chùa Hương trở về, rồi cấp cho làng 12 nén bạc, 12 nén vàng để mở hội ăn mừng. Từ đó, hàng năm cứ đến ngày 11, 12 13/3 âm lịch là làng mở hội để tưởng nhớ công đức của các vị đại vương.
Những ngày gần tới hội làng, các xóm trong làng nhà nhà chuẩn bị lợn gà, xay lúa, giã gạo, giã bột để làm bánh. Đình, Đền, các nhà chức sắc, các ông lành, cụ từ đã quét dọn, lau rửa, rồi trang hoàng, bày biện nơi thờ tự thật lộng lẫy, uy nghi, trước hồ trên khuôn Đình là cờ thần, cờ đỏ sao vàng khổ lớn phần phật bay. Trên cổng đình là băng rôn thắm màu lụa với hàng chữ ‘’ Khánh hội du xuân Tam vị thượng đẳng tối linh thần’’.
Từ ngày 10/3, ở Đình, chùa, Đến, Miếu đã chằng buộc kiệu, sắm sửa cờ, các đồ khí tự,… Rồi lễ cáo, lễ sao bái. Ngày 11/3, từ rất sớm, các nhà chức sắc, hương lão, các chư già khăn áo chỉnh tề đã có mặt tại Đình.
Các đội phủ giá, tài tử bát âm, đội rồng, đội cờ, đội xênh tiền, hàng lối chỉnh tề trên sân. Phủ giá chọn những trai làng khoẻ mạnh, chưa vờ, đều nhau ăn vận áo nâu màu vàng có đường viền đỏ thân thêu long hoá, thắt lưng đỏ, chân quấn xà cạp vàng, viền đỏ đi giày trắng. Dưới sự chỉ huy của 1 nhạc trưởng, 12 nhạc công với trốn lớn, trống nhỏ, trống phường, thanh la nạo bạt, chiêng đồng, sáo trúc, hồ nhị…hoà tấu nên những bản nhạc dân tộc rộn ràng trầm bổng, du dương. Cùng lúc từ các ngả đường, dân đinh nam phụ, lão ấu trong trang phục mới đẹp, đủ các màu từng đoàn từng đoàn đổ về Đình nơi diễn ra lễ hội.
Giờ tốt đã chọn, các nhà chức sắc cho lệnh khởi kiệu đi qua Miếu Bà, đến Đền Trung, Đền Thượng, chùa Thuỷ Vân tự để phụng nghin các chư vị về hội đồng tế tự. Theo giờ định, từ các Đền, Chùa kiệu hội tụ tại ngã ba đầu làng phía trước đền Thượng thành 1 đoàn rước. Từ đây, đoàn diễn trên con đường nghinh thần cong cong uốn khúc từ đầu làng nơi có chùa Thuỷ Vân tự đến tận Đình dài tới ngàn mét.
Đây là con đường của các vị thần mà làng tôn thờ, trong tâm thức người dân Lai Tảo, con đường này rất linh, từ bao đời nay người ta kiêng kị đám cưới, đám tang không dám đi dọc con đường này mà phải lựa đường đi tránh. Kéo dài cả hàng trăm mét, đoàn người dự lễ hội đông đúc, chật ních cả con đường rộng. Từ xa đã thấy sắc màu rực rỡ kiệu, ngai lộng lẫy, uy nghi. Đi đầu đoàn rước là đội rồng, tiếp đến là đội kỳ. Sau đó, hai hàng đều đặn các cụ hương lão khăn xếp, áo lương, quần trắng, tay mang truỳ đồng, hồng trượng, đại đao phù việt. Các kiệu phù nhang đi đầu kì khẩu. Ngự trên kiệu bát cống được 8 phủ giá cung nghinh là bóng ngài đức Tản Viên Sơn. Kiệu được làm bằng loại gỗ quý, đục long suốt, hoa văn tinh tế, sơn son thếp vàng.
Hai bên là các chư già, áo dài cổ mang tràng hạt, tay cầm hương nghi ngút. Hút mắt mọi người về hội, xem rước là kiệu tam vị được 12 phủ giá cung nghinh, có lẽ là bộ kiệu lớn nhất vùng này. Tam vị ngự trên 3 ngai lớn, mình mang áo gấm thắt đai xiêm nhà binh, chân đi hia trên đầu cánh mũ lung linh toả ánh hào quang. Cứ như vvậy, đoàn rước diễu hành trên con đường lớn, sau hơn canh giờ mới về tới Đình. Kiệu ngự ở sân Đình: các nhà chức sắc, các ông lành, các cụ hương lão lần lượt cung nghin các chư vị vào cung theo đúng vị trí mà từ xưa tiền nhân đã làm, rồi lễ yên vị. đến chiều cùng ngày, làng mở tuần tế yết cỗ tế gồm: Xui thủ, Xôi kê, oản quả,...
Đêm đến có chiếu chèo, Tuồng cổ tại Đình. Ngày 12/3 là chính hội. Hầu như thâu đêm hôm trước, các xóm mọi người mọi nhà tất bật mổ lợn, mổ gà, đồ xôi, nấu chè, nấu bánh làm cỗ để dâng lên tế thần và cúng tổ tiên. Từ tinh mơ, cỗ tế ở các xóm được đưa lên kiệu, những trai tân cường tráng theo nhịp trống rước cỗ vào Đình đi theo là hương lão, chư già cùng bà con lối xóm. Cuộc tế lẽ kéo dài tới gần trưa. Bên cạnh tế lễ, còn diễn ra các trò chơi dân gian như bắt vịt tại ao Đình, múa kiếm, bắn cung,…
Tan chiếu chèo nửa đêm có tế bán dạ. Ngày 13/3, từ sáng sớm sau khi tế tạ làm lễ phụng nghinh từ Đình làng khởi kiệu rước các chư vị hoàn cung. Sau khi hoàn cung là lễ yên vị. Chiều cùng ngày, làng tổ chức lễ tạ.
Hội là dịp nhắc nhở dân làng nhớ ơn đức thượng đẳng thần có công hộ quốc cứu dân, hướng về cội nguồn nhớ ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ sinh thành.
Lễ hội Đền Và được tổ chức vào ngày 15/1 âm lịch, tại Đền Và, Thôn Vân Gia, Xã Trung Hưng, Sơn Tây.
Tương truyền thuở ấy, khi vua Hùng nghe lời Sơn Tinh trao ngôi vua cho Thục Phán, đất nước trở lại cảnh thanh bình. Sơn Tinh cùng Mỵ Châu về sống trên núi Ba Vì. Ngài thường du ngoạn bốn phương, hỏi thăm dân tình. Một lần Ngài nhằm hướng mặt trời mọc đi đến quả đồi thấp ven dòng sông Tích. Thấy đây là nơi thắng địa, Ngài dừng chân nghỉ ngơi vừa lúc trên trời xuất hiện đám mây ngũ sắc từ phía núi Ba Vì bay tới kịp che mát một vùng. Ngài cho đó là điềm lành, bèn cho lập tại chỗ một hành cung. Nơi ấy nay là đền Và.
Từ khi có hành cung ở Đền Và, Thánh Tản thường lui tới vùng đất bên kia sông Hồng. Một lần, trên đường trở về Đền Và, Ngài dừng chân nghỉ ngơi tại một xóm nhỏ ven sông. Tuy đang tiết xuân mát mẻ, nhưng vì đi đường xa gió bụi, nên Ngài muốn tìm nước để tắm giội đôi chút. Nhìn quanh đấy, thấy một cô gái gánh đôi sọt đi cắt cỏ, Ngài đến bên lựa lời chào hỏi rồi ngỏ ý nhờ cô gánh cho một gánh nước sông Hồng. Cô gái tưởng chàng trai đùa lỡm nên cười ngặt nghẽo. Nhưng trước vẻ chân thực của chàng trai cô gái rất ngạc nhiên rồi chối từ vì sọt của cô chỉ đựng được cỏ, làm sao đựng được nước. Ngài cười và bảo cô cứ giúp thử xem sao. Quả nhiên, đôi sọt đựng được nước thật.
Trong khi Ngài thoả thuê tắm giội thì cô gái chạy về loan báo với dân làng có chuyện lạ đời. Khi mọi người kéo đến nơi thì người tắm đã đi mất, xung quanh còn phảng phất hương trầm. Lúc ấy dân làng mới bừng tỉnh, nhận ra là chính đức thánh Tản vừa mới qua đây.
Lại nghe nói, khi mới gặp cô gái, nhân chuyện cắt cỏ, Ngài còn bày cho cô cách làm liềm thay cho con dao cô vẫn dùng để cắt được dễ hơn, nhanh hơn.
Ghi nhớ dấu tích và công đức của Ngài, dân làng Di Bình (xã Vĩnh Ninh huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc) đã dựng ngôi đền và đặt tên là đền Ngự Giội, ý muốn nhắc việc Ngài đã đến ngự và tắm giội ở đó trước khi về đền Và.
Dân sở tại Đền Và, dựa vào sự tích đám mây lành (chữ Hán là Vân già) xuất hiện trên bầu trời quê mình mà đặt tên là làng Vân Gia. Từ đó, dân thôn làm ăn phát đạt, càng chăm sóc việc hương khói thờ phụng Thánh Tản. Lễ hội Đền Và diễn ra xuân thu nhị kỳ: mùa xuân mở vào tháng Giêng, mùa thu mở vào tháng Chín.
Hội rằm tháng giêng Hàng năm lễ hội đền Và mở vào ngày rằm tháng giêng. Cứ 3 năm thì tổ chức lễ hội lớn một lần vào các năm Tý - Mão - Ngọ - Dậu. Năm lễ hội lớn ở đền Và có lệ tục rước nước do dân làng Di Bình thuộc xã Vĩnh Thịnh, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đảm nhiệm. Cũng vào năm tổ chức lễ hội lớn, các làng có liên quan tín ngưỡng ở đền cùng nhau tổ chức một cuộc rước lớn. Tất cả có 8 làng tham gia, gồm: Vân Gia, Thanh Trì, Nghĩa Phủ, Mai Trai, Đạm Trai thuộc xã Trung Hưng; làng Phù Sa, Phú Nhi (Bần Nhi) thuộc xã Viên Sơn và làng Di Bình (tỉnh Vĩnh Phúc).
Lễ hội diễn ra trong một không gian rộng, được tổ chức chặt chẽ. Lễ hội bắt đầu mở từ ngày 13 tháng giêng. Dân thôn Vân Gia lên đền dọn dẹp, trang trí cờ hội. Buổi chiều dân các thôn rước cỗ kiệu của làng mình về đặt ở sân trước nhà tiền tế tại đền Và. Các cỗ kiệu xuống thuyền qua sông. Cư dân vạn chài ở trên sông tấp nập kéo tới, ghép thuyền lại thành một cầu phao lớn cùng đưa đoàn rước sang sông và họ nhập vào đoàn rước trở thành những người đi hội. Quan niệm của dân vào ngày này vạn chài nào trên sông làm nhiều điều phúc thì Thánh Tản sẽ cho nhiều lộc lớn trong năm.
Sang ngày 15 tháng giêng, ngày chính hội là những cuộc vui chơi, tiếp đón khách thập phương đến đền Và dâng hương, hoa trái và viếng Đức Thánh Tản. Ngày 15 ở sân trước nhà tiền tế có đấu vật. Các đô vật xứ Đoài đến vật chầu bóng Thánh, sau đó diễn trò vui vật giật giải, một thú vui đua sức, đua tài vốn rất được dân xứ Đoài hâm mộ. Lễ hội thu (rằm tháng 9 âm lịch) Lễ hội mở vào ngày 14 tháng 9 (âm lịch), dân làng các thôn Vân Gia, Nghĩa Phủ, Thanh Trì, Mai Trai, Đạm Trai ùa ra đoạn sông Tích từ Thượng Cầu Vang (giáp xã Đường Lâm) đến Hạ Mả Mang (giáp thôn Ái Mỗ) cùng đánh bắt cá tập thể trên đoạn sông này. Mọi người mang những công cụ đánh bắt cá như nơm, vó, xúc... Ai bắt được loại cá trắng, to thì nộp cho làng, cá nhỏ mang về nhà. Cuộc đánh bắt cá đến khi nào chọn ra đủ 99 con thì mang số cá đó về làm tiệc cá, thờ Đức Thánh Tản ở đền Và. Lễ hội này dân gian gọi là lễ hội “ đả ngư ”. Trò đánh bắt cá tập thể của 5 làng trên đoạn sông Tích có ý nghĩa lấy vui, lấy may. Ai được con cá to tâm niệm năm ấy Đức Thánh Tản phù trợ cho làm ăn gặp nhiều may mắn. Trong số 99 con cá ấy, được rửa sạch chế biến thành nhiều món dâng lên đức Thánh Tản. Tất cả dân chúng thành kính trước uy linh của Ngài. Cuối buổi, mọi người ngồi thụ lộc các món đặc sản từ cá trong không khí sảng khoái. Có một chi tiết của lệ tục xưa ở đền Và qui định cơm ăn, cỗ cúng ở đây không được dùng muối, mà phải ăn nhạt. Khi ăn cơm xong, quan viên uống nước ăn trầu (lá trầu, cau, vỏ) nhưng không được dùng vôi. Vì thế, dân gian có câu: "Hội đền Và trầu không vôi, xôi không muối".
Lễ hội Miếu Mạch Lũng được tổ chức trong 3 ngày từ 10 đến 12/2 âm lịch hàng năm, tại xã Đại Mạch, huyện Đông Anh. Miếu Mạch Lũng là di tích lịch sử thờ ba vị anh hùng dân tộc thời Hùng Vương thứ 18.
Thần phả lưu ở miếu Mạch Lũng cho biết: Nước Văn Lang có người em vua tên là Hùng Trang, là Trưởng quan đạo Hải Dương lấy con gái Trưởng quan hộ chủ Cửu Chân là là Soa Nương. Về nhà chồng đã tám, chín năm nhưng đã vẫn chưa sinh nở lần nào. Soa Nương ngày đêm thắp nhang cầu nguyệt trời đất 3, 4 năm ròng. Kết quả là vào một đêm nọ, Soa Nương nằm mơ thấy có ba con rồng từ ngoài vào, hoá thành ba người con trai. Người anh xưng là chàng Cả, em xưng chàng Hai, em út xưng là chàng Ba, tất cả đều ở Thuỷ cung tình nguyện xin đầu thai làm con. Thế rồi bà có mang. Ngày 14 tháng 8 năm Nhâm Tý, bà sinh được một bọc, nở ra được ba người con trai đều có thiên tư xuất chúng lạ thường. Lớn lên, cả ba anh em đều thông minh, học vài năm mà thiên kinh vạn quyển đều đã tinh thông, trên tường thiên văn, dưới thông địa lí, không việc gì không biết, không vật gì không hay. Ba anh em có công giúp dân chống lũ lụt, hạn hán, dạy dân ca hát, học hành, trồng dâu, chăn tằm... Ba anh em được nhà vua phong thưởng rất hậu. Ba vị ra ở trang Mạch Lũng, lập một cung khác để đón mẹ là Soa Nương đến ở. Dân trong vùng từ già đến trẻ đều rất đỗi mến yêu. Ba anh em còn giúp nhà vua chỉ huy thuỷ quân đánh tan quân ngoại xâm, bảo vệ nguyên vẹn bờ cõi. Nhà Vua ban chiếu triệu hồi. Lúc đó, ba vị về trước điện làm lễ bá tạ rồi ai nấy đều cỡi bỏ cân đai... hoá phép biến thành rồng, biến mất. Hôm ấy là ngày 13 tháng 7, trời đất tối sầm, khói hương thơm ngát. Vua bèn phong sắc cả ba anh em là Minh Mỗ Đại vương Thượng đẳng thần, sai sứ thần đón về trang Mạch Lũng thờ phụng. Từ đó về sau, các vị thường hiển linh giúp nước, cứu dân, cầu mưa, cầu tạnh đều rất linh ứng, cho nên các đế vương đều phong mỹ tự để hương khói...
Miếu được trùng tu, mở rộng nhiều lần. Lần được biết rõ nhất là vào thời Lê Trung Hưng, quy mô bề thế, có giá trị nghệ thuật cao. Kiến trúc của miếu làm theo kiểu chuôi vồ, cửa mở về hướng Tây - Nam, nhìn ra sông Hồng.
Trong suốt 3 ngày lễ hội, các đoàn đại diện cho các tổ đội sản xuất, nhóm đồng niên, đông ngũ, đồng môn…và các gia đình lần lượt mang lễ lên miếu làm lễ dâng hương. Những gia đình làm ăn khá giả có thể dâng đến 5 mâm lớn với thủ lợn, xôi, gà, trầu cau, bánh cốm…và những gia đình nghèo nhất cũng thể hiện lòng thành với đĩa xôi, khoanh thịt. Tất cả các việc đại sự trong các gia đình như hiếu, hỉ, xây nhà…đều phải dừng lại để tập trung cho ngày Thánh.
Phần lễ với các nghi lễ truyền thống như tế nam, tế nữ, tế cáo, rước kiệu. Phần hội có nhiều hoạt động văn hóa dân gian như: chọi gà, cờ tướng, bịt mắt đập niêu, hát quan họ… thu hút đông đảo người dân và du khách tham gia.
Hội làng Đức Diễn được tổ chức từ ngày 10 đến 13/2 Âm lịch hàng năm, tại thôn Đức Diễn xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm. Lễ hội nhằm tôn vinh Thổ lệnh Quốc thống đại vương, thần trấn giữ thành Bạch Hạc, tam giang Đào Trường, thượng đẳng thần.
Làng Đức Diễn xưa có 4 giáp là giáp Trung, giáp Chính, giáp Đông và giáp Tây. Đình làng Đức Diễn toạ lạc trên một khu đất rộng, cửa đình hướng nam, phí tây của đình là một cái ao lớn, bờ ao chạy dọc theo đất đình tạo nên một khoảng không gian thoang đãng, mát mẻ. Sân đình khá rộng để xứng với nhà tiền tế 5 gian, chạy hết chiều ngang của sân. Kiến trúc của đình theo kiểu chữ công gồm đại đình, thần đoạ và cung cấm.
Hàng năm mỗi giáp lần lượt được đăng cai tổ chức lễ hội, làng gọi làm vào đám. Lễ hội của Đức Diễn xưa có nhiều yếu tố dân gian, tục lệ như ngày 9 tháng 2: làng giao cho các trai tráng dẫy cỏ ở gò bên cạnh giếng, tạo thành bậc tam cấp. Sau khi dẫy cỏ khiêng một cái chum sành đến, gánh nước đổ đầy chum và tuần phải trông qua đêm không để vật bẩn rơi vào.
Sáng ngày 10 tháng hai, làng tổ chức đám rước đi từ đình làng qua cổng “Ma hóp” vòng đường sang cồng Giếng rồi về đình. Đám rước gồm: dẫn đầu là cờ hội, cờ thần sau đó là cờ ngũ hành, tứ linh, sau cờ là các ông trong ban tế vác đồ bát bửu theo hầu, rồi đội chấp kích. Tiếp là ban nhạc bát âm, trống khẩu, sau đội bát âm là tám cô gái đồng trinh thay nhau khiêng một giá gỗ sơn son thếp vàng đựng chóe sứ đẹp. Đó là chóe sứ trong lễ rước nước. Tới gò đoàn dừng lại để chuyển nước sạch từ chum sang cho đầy chóe rồi rước về đình.
Hội làng Đức Diễn có những cỗ bánh riêng để cúng thần như: bánh dầy, bánh cuốn và mía. Làng Đức Diễn vốn là làng nông nghiệp, chỉ lo việc trồng lúa không có cây gì khác. Người làng kể lại có ông Lý Năm trong một lần về quê vợ ở đoan Hùng ăn giỗ, thấy giống bưởi quá ngon đã xin một cành chiết đem về Đức Diễn. Khi chưa coi trọng kinh tế vườn, thì những giống bưởi nhân từ nhà ông Năm chưa có giá trị cao, nên chưa phổ biến nhiều. Lúc giá trị cây quả được coi trọng, người ta mới chú ý nhân giống đại trà bưởi Diễn. Và cũng đặc biệt là bưởi Đức Diễn bao giờ cũng ngon hơn. Ngày nay trong khí thế đi lên xây dựng nông thôn mới. Đức Diễn vừa xây dựng phong trào sản xuất, vừa giữ gìn những nét tiêu biểu của phong trào tục lễ hội quê hương.
Hằng năm, làng mở hội tưởng niệm các vị Quốc Tổ vào ngày 12 đến 14 tháng mười (âm lịch). Lễ vật chỉ có oản quả đặt lên kiệu bát cống rước từ chùa về đình. Hội xưa có nhiều trò chơi: ban ngày có múa rối, bắt phỗng, bịt mắt bắt dê; buổi tối có hát tuồng, chèo. Vào ngày mồng 3 Tết, ở Xuân Dục còn có hội húc cầu gỗ.
Làng Xuân Dục Đông, xa xưa có tên gọi Xuân Đán Trang nay thuộc xã Tân Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Xuân Dục là điểm tụ cư của người Việt cổ, là điểm nối giữa vùng đất tổ Phong Châu với vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đình Xuân Dục thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Huyền thoại xưa kể rằng, vào thời Hùng Vương, có một cánh quân của Thánh Gióng do tướng Hữu Lâm chỉ huy, một buổi chiều giáp Tết hành quân qua Xuân Đán Trang. Vị chủ tướng thấy nơi đây có rừng già, phong cảnh đẹp bèn cho quân dừng chân nghỉ lại. Để quân dân cùng vui, dân làng đem cơm nắm, cà muối ra thết nghĩa quân (nay ở Xuân Dục còn có địa danh Rừng Cơm). Các phụ lão ở đây còn kể, lúc các chiến sĩ đi chơi xuân, thấy trẻ mục đồng túm năm tụm ba, bèn nghĩ ra trò chơi húc cầu. Lúc đầu quả cầu được tạo bằng củ chuối lá mọc giữa rừng có đường kính khoảng 30cm. Dụng cụ để cướp cầu là một que tre ở đầu có móc nhọn. Sau khi que tre gãy người ta dùng sức người để đẩy. Ai khéo dùng mẹo lừa cướp được cầu đẩy vào lồ phía bên kia là thắng cuộc. Nhưng quả cầu làm bằng củ chuối không để được lâu, người ta nghĩ ra cách chế quả cầu bằng gỗ lục thông (cây thông to ở rừng) đường kính khoảng 50cm nặng 60-70kg sơn mầu đỏ.
Làng Xuân Dục có bốn giáp chia thành hai đội (nhân dân địa phương gọi là tứ giáp lưỡng đoàn). Mỗi đội cử 10 trai đinh khỏe mạnh. Chỉ huy mỗi đội là một ông cai. Giáp Đông, giáp Điềm giữ lồ phía đông; giáp Đoài, giáp bắc giữ lồ phía tây. Cuộc chơi diễn ra trên một thửa đất 5 sào trước cửa đình. Chiều mồng 3 Tết, lễ đào lồ diễn ra hết sức trang nghiêm. Theo tục lệ ở đây, lễ đào lồ đồng thời cũng là lễ động thổ. Từ đây, có việc cần thiết phải ra đồng, người ta được tự do cày cuốc không còn phải kiêng cữ. Hai lồ nằm theo hướng đông - tây. Mỗi lồ sâu 0,5m rộng 0,8m. Lồ nọ cách lồ kia 25m. Cùng với lễ động thổ, các chức sắc còn tổ chức lễ vớt cầu từ Ao Tiên, rửa sạch, lau khô rồi đặt lên chiếu hoa trước hậu cung đình. Lúc ấy, trên ban thờ đã bày biện cỗ chay gồm: bánh dày, bánh rán, bánh khảo cùng một buồng chuối lá. Tục truyền, bánh dày tượng trưng cho cơm nắm, bánh rán tượng trưng cho cà ghém mà thuở xưa dân làng đã úy lạo quân ông Gióng. Lễ thần xong, đêm mồng 3 Tết, ông từ cùng các phụ lão phải đèn nhang thờ phụng và canh quả cầu suốt đêm.
Sáng mồng 4 Tết, sau khi các quan viên hương lão tế thần xong lúc 10 giờ thì hai đội tiến ra sân đình lễ vua. Các cầu thủ quấn khăn đầu rìu, thắt lưng đỏ xếp hàng chờ cụ chủ tế đánh hai tiếng trống thì chắp tay lên ngực, đánh ba tiếng trống mọi người cùng lễ vua cho đều. Sau lễ trình là cuộc đấu sức đua tài diễn ra hết sức sôi nổi, hào hứng. Điều hành cuộc chơi là cụ chủ tế còn người đánh trống chầu là hai ông đăng cai thay phiên nhau. Trong tiếng trống thì thùng khoan nhặt, khán giả đủ các lứa tuổi tha hồ mà chen chúc xô đẩy, miệng hò reo cổ vũ ầm ĩ. Trong khi đó, các cầu thủ tìm mọi cách trườn bò, luồn lách cốt sao đẩy được quả cầu gỗ trúng lồ phía bên kia. Mẹo chơi duy nhất là một người ôm chặt quả cầu, ba bốn người cùng đội tập trung sức lôi phốc cả người ôm cầu chạy nhanh về lồ phía kia. Nhưng trước sự cảnh giác của đội bạn, cánh "lừa" trên không phải bao giờ cũng giành được thắng lợi. Cuộc đua tranh được dừng ngay khi có bên thắng bên thua. Nhưng tới 4 giờ chiều vẫn không phân thắng bại thì cuộc đua vẫn kết thúc. Cụ chủ tế lấy một cành lá tươi (làng gọi là cây nêu) đánh dấu chỗ quả cầu đang đậu và lấy lễ vật trên ban thờ phân phát cho mọi người.
Sáng mồng 5, mọi nghi lễ lại được tiến hành như ngày mồng 4. Vào chiều ngày 5, sau khi lễ tạ và phát lộc, cụ chủ tế còn lấy buồng chuối lá từ ban thờ thần tung mạnh ra giữa sân. Mọi người dự hội lại được dịp xô lấn, cướp và giật. Ai cướp, bẻ được nhiều quả thì năm đó người ta tin là sẽ gặp được nhiều may mắn.
Cũng buổi chiều ngày mồng 5, sau khi ba quả cầu trở lại nằm dưới Ao Tiên thì cũng là lúc các trai đinh về nhà chuẩn bị khăn áo để 3 giờ sáng hôm sau, họ đốt đuốc rước kiệu hoa trúc về đền Sóc Sơn lấy lộc. Hoa trúc được chế từ những thanh tre dài 0,7m, bông tua được nhuộm vàng, nhuộm đỏ. Bó hoa trúc có từ 150 đến 200 bông. Dự lễ xong, kiệu làng Xuân Dục rước ra đến giữa sân đền Sóc. Nam thanh nữ tú ở khắp nơi về dự hội hô nhau xô vào cướp. Và ai cũng cố cướp được ít nhất là một bông. Người ta tin rằng, đi hội mà cướp được hoa trúc thì năm đó bản thân gặp nhiều hạnh phúc, may mắn.
Hội húc cầu gỗ ở Xuân Dục thể hiện ước mong từ ngàn đời của người dân chuyên trồng lúa nước: mong mưa thuận gió hòa; quả cầu đỏ tượng trưng cho mặt trời chuyển động từ đông sang tây. Người Xuân Dục lấy sự thắng, thua của hội như là một sự dự báo thời tiết trong năm:
- Bên tây thua báo hiệu vụ mùa khó khăn, nước ít, sâu bệnh nhiều.
- Bên đông thua là năm đó được mùa, nước nôi đầy đủ, không sâu bệnh
- Hai bên hòa là năm đó khí hậu bình thường, dân làng tha hồ sản xuất và chăn nuôi.
Trong những năm chống thực dân Pháp, đình Xuân Dục Đông đã bị giặc phá hủy để chúng lấy gạch đi xây bốt Núi Đôi. Dân làng chỉ còn giữ được ba quả cầu ở Ao Tiên. Sau năm 1954, đình Xuân Dục đã được dựng lại. Hằng năm, hội húc cầu ở đây vẫn được tổ chức trước sân đình.
Xuân Dục, mảnh đất lịch sử - ở đó không chỉ có "Núi chồng núi vợ đứng song đôi" mà còn có hội húc cầu độc đáo mỗi năm Tết đến Xuân về thu hút hàng nghìn người đến dự.
Hàng năm, lễ hội đền Đại Lộ được tổ chức trọng thể tại đền Đại Lộ, chùa Đại Lộ và đền Quan trong 10 ngày, từ ngày 01 đến 10 tháng Hai âm lịch tại xã Ninh Sở, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Lễ hội nhằm suy tôn “Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương” là Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thương Ngàn, Mẫu Thoải và Mẫu Địa, lưu giữ được nét đẹp văn hóa thờ Mẫu truyền thống lâu đời của nhân dân Việt Nam.
Đền Đại Lộ cách trung tâm thành phố khoảng 15km về phía nam. Đền được xây dựng từ Triều Trần, cách đây khoảng hơn 700 năm. Xung quanh sự ra đời của ngôi đền cũng như lễ hội truyền thống này đã có nhiều nghiên cứu khác nhau, nhưng các cụ cao tuổi trong làng vẫn truyền lại cho con cháu một sự tích mang màu sắc huyền bí, đầy tự hào.
Xưa kia, đoạn đê ở làng quê Ninh Sở bị vỡ, người dân trong làng tìm mọi cách để đắp lại nhưng đều không thành. Sau đó, đích thân nhà Vua cùng dân làng ra sông Nhị Hà cầu khấn, làm lễ xin ba vị thánh mẫu cho hạp long khúc đê, dân làng xin lập đền thờ phụng. Lúc đó, có hai ông rắn (dân làng gọi là hai ông đốp hay ông đốt) đột nhiên xuất hiện, từ từ đấu đuôi lại với nhau, từ đó đoạn đê được hạp long và không bao giờ bị vỡ nữa. Chính vì vậy, ngay phía trên các ban thờ trong đền Đại Lộ đều được trang trí bởi hai con rắn cuộn mình trên các thanh xà.
Lịch lễ hội được diễn ra như sau:
Ngày 01/02: Buổi sáng, lễ mở cửa đền, lễ cúng khai quang yên vị ở đền Đại Lộ và đền Quan được tổ chức. Buổi chiều, dân làng và du khách thập phương vào lễ Thánh.
Ngày 02/02 : Buổi sáng, diễn ra lễ tế nhập tịch ở hai đền (đền Quan tế trước, đền Đại Lộ tế sau); Buổi chiều, đội nam tế đền Quan, đội nữ tế đền Đại Lộ.
Ngày 03/2: Buổi sáng, đội nam tế đền Đại Lộ; Buổi chiều, lễ hạ sắc ở đền Quan và lễ rước sắc về chùa Đại Lộ được tổ chức.
Ngày 04/2: Buổi sáng, rước sắc lên đền Quan, sau đó ra đền Đại Lộ; Buổi chiều, các kiệu ở đền Quan và đền Đại Lộ được rước về sân chùa Đại Lộ để chuẩn bị cho lễ rước nước. Sau đó, đội nam tế đền Quan và đội nữ tế đền Đại Lộ.
Ngày 05/2: Từ sáng sớm, đoàn rước sẽ rước kiệu, chóe đựng nước cùng đầy đủ lễ vật từ chùa Đại Lộ ra bến Lộ để lên thuyền ra giữa sông lấy nước. Sau đó, nước được rước về đền Đại Lộ để thờ Mẫu. Tại đây, đoàn tế nam làm lễ hạ sắc và rước sắc về chùa Đại Lộ. Đến tối, đội nữ tế đền Đại Lộ.
Ngày 06/2 (Chính hội): Buổi sáng diễn ra lễ rước sắc từ chùa Đại Lộ ra đền Đại Lộ, tiếp theo là lễ tế Thánh của đội tế nữ. Buổi chiều và tối, đội tế nam của đền Đại Lộ và các làng lần lượt hành lễ tế Thánh. Đây là ngày chính tiệc của Tứ vị Thánh Mẫu, nên đan xen giữa các lễ tế là các hoạt động hầu Thánh của các đệ tử nhà Thánh với ý nghĩa tưởng nhớ và tôn vinh công đức của người.
Ngày 07 - 08 - 09/2: Đội tế nam và nữ ở các đền từ một số địa phương lân cận về hành lễ tế Thánh.
Ngày 10/2 : Lễ hội kết thúc với màn tế giã hội của đội tế nam và đội tế nữ ở đền Đại Lộ, chùa Đại Lộ và đền Quan.
Trong thời gian tổ chức lễ hội còn có các trò chơi dân gian như: đánh cờ tướng, kéo co, bóng đá, đập niêu và biểu diễn hát quan họ, hát văn…
Cổ Trai là một trong 6 thôn thuộc xã Đại Xuyên (Phú Xuyên, Hà Tây) gồm: Kiều Đông, Kiều Đoài, Cổ Trai, Thường Xuyên, Thái Lai và Đa Chất.
Hệ thống đình, chùa ở Đại Xuyên được xây dựng từ khá sớm, có quy mô bề thế và đều có sự tu bổ, sửa chữa ở các triều đại phong kiến về sau. Tiêu biểu hiện nay ở đình Cổ Trai, với những mảng chạm trên hệ thống bộ vì, các đầu dư mang phong cách nghệ thuật tương ứng với dòng Lạc khoản ghi trên câu đầu tại Đại bái đình: “Hoàng triều Cảnh Hưng tứ thập tứ niên tu tạo” (1783). Đình Cổ Trai thờ Trung Thành Đại vương - một vị thiên thần thời Hùng vương thứ XVIII. Nói đến vị thần, sách Đại Nam nhất thống chí có ghi: “Đền thần Trung Thành ở xã Đa Chất, huyện Phú Xuyên. Tương truyền thần Trung Thành tức là thủy thần ở ngã ba Bạch Hạc”. Nhiều làng quanh khu vực cũng thừa nhận Thành hoàng ở đình Đa Chất là chính, các làng khác chỉ thờ vọng.
Mỗi quê hương làng xóm đều có những nét văn hóa riêng biệt, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Đặc biệt nhân dân Đại Xuyên, tuy mỗi thôn có giọng nói khác nhau, nhưng từ xưa đã hình thành nên bản sắc văn hóa truyền thống chung, mang đặc trưng của cộng đồng cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là tinh thần đoàn kết, tương trợ nhau trong lao động. Điều đó được xuất phát từ yêu cầu của công tác trị thủy (sông Lương và sông Nhuệ chảy qua), đòi hỏi người dân phải phòng, chống lụt lội...
Hàng năm, nhân dân Đại Xuyên đều tổ chức lễ hội truyền thống từ ngày 10-8 đến 15-8 (âm lịch). Nhân dân các thôn với trang phục lễ hội truyền thống cùng đoàn rước đến đình Đa Chất rước Thành hoàng về đình làng mình.
Đối với làng Cổ Trai, lễ hội truyền thống được tổ chức từ ngày mùng 8 đến ngày 11-8 (âm lịch). Trước ngày Đại kỳ phước, trong làng nhà nhà, người người cùng nhộn nhịp chuẩn bị cho lễ hội. Ngày mồng 7-8, cụ thủ từ và các cụ trong làng gia đình song toàn, không vướng bụi ra đình làm lễ Mộc dục và phong mã cho long ngai bài vị thờ thánh. Nước làm lễ Mộc dục được lấy từ sông Lương trước đó.
Tiêu biểu và đông vui là ngày hội rước nước do nhân dân địa phương tiến hành. Lực lượng tham gia lễ rước được chia thành 2 đội. Các đội này mặc trang phục ngày hội. Đi đầu đoàn rước là đội múa rồng, lộng lẫy uy nghi, uốn lượn theo nhịp trống, phách dồn dập. Múa rồng là một nghệ thuật, đòi hỏi người múa sao cho giống “rồng bay”, uốn lượn nhịp nhàng. Tiếp sau là đội bát âm, nhã nhạc như: Sáo, nhị, đàn gảy, tù và... Cụ thủ từ tay cầm trống khẩu làm điều lệnh đối với đội kiệu. Kiệu, chóe đựng nước do 4 thanh niên trai tráng khỏe mạnh khiêng. Chiếc chóe sứ đặt trên bệ để trên kiệu và có lọng che. Đoàn người trong trang phục ngày hội nối tiếp nhau rước kiệu tới bờ sông Lương. Đến bờ sông thì đoàn rước dừng lại. Trên sông đã có hàng chục chiếc thuyền kết đầy cờ hội chờ sẵn. Sau tràng pháo nổ, tiếng trống, tiếng tù và, sáo, nhị, đàn gảy, nghi lễ lấy nước được tiến hành. Người được chọn giao lấy nước là một cụ cao niên trong làng, khỏe mạnh, có đức độ, mặc lễ phục dùng gáo dừa để lấy nước đổ vào chóe. Khi chóe đã đầy nước, sau một hồi trống giục thì nước được đưa vào bờ. Đoàn rước theo thứ tự như lúc đi trở về đình. Nước này được dùng để tế hàng tháng.
Lễ rước nước trong lễ hội làng Cổ Trai đưa chúng ta trở về với không khí của những hội làng thuở xưa. Nội dung lễ rước nước này mang đậm nét tín ngưỡng cầu nước của cư dân nông nghiệp. Đây là một động thái thiêng liêng đã trở thành một nghi lễ mở đầu cho nhiều hội làng ở vùng đồng bằng Bắc bộ.
Lễ hội làng Cổ Trai được diễn ra trong một không gian thiêng như đưa chúng ta trở về với quá khứ, niềm cộng cảm của cộng đồng được tái hiện, đắm chìm trong những ước vọng của người xưa cầu cho dân khang vật thịnh, mùa màng bội thu. Lễ hội chính là lễ hội của cư dân nông nghiệp lúa nước ẩn tàng trong các trò chơi diễn xướng dân gian. Lễ hội được tổ chức hàng năm là dịp để người dân nơi đây tưởng nhớ Thành hoàng làng nhưng thực chất là để tưởng nhớ tới tổ tiên, qua đó giáo dục tinh thần yêu quê hương, đất nước cho toàn thể cộng đồng, ý thức bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Lễ hội đền Ba Xã được tổ chức vào ngày 12 tháng 6 Âm lịch, tại xã Minh Đức, huyện Ứng Hòa (Hà Nội). Từ lâu lễ hội đã trở thành lệ của năm thôn: Thịnh Cầu, Thịnh Bằng, Thịnh Thần, Thịnh Thượng, Thịnh Hạ và dân chúng thập phương kéo về dự hội rất đông.
Theo như lời kể của các bậc cao niên: Xa xưa, vùng này là rốn nước đồng chiêm, nghiệp canh nông cả năm chỉ ở một mùa mà vẫn bấp bênh. Cư dân đói nghèo xơ xác trên đồng trắng, nước trong. Cho tới khi có người họ Mạc, tên gọi là Trâu Trắng ra dạy dân khoanh vùng ngăn nước và trồng các giống lúa thích ứng theo từng mùa vụ. Kết quả là dân được ấm no, quần cư trở nên phồn thịnh và trù phú. Khi ông qua đời, nhớ công ơn ấy, nhân dân trong vùng quyên tiền, góp sức lập đền thờ và tôn ông làm đức thành hoàng và cũng từ đấy người dân địa phương có thói quen kỵ huý tên gọi: Trâu.
Đền thờ đức thánh Mạc Trâu đặt ở nơi trung tâm của năm thôn: Thịnh Cầu, Thịnh Bằng, Thịnh Thần, Thịnh Thượng và Thịnh Hạ. Mặt đền nhìn về hướng đông, trông ra mặt hồ sen rộng bát ngát. Hai bên tả hữu đền, bên là chi lưu của dòng sông Nhuệ, bên là đường cái quan uốn khúc như con rồng, con rắn lượn quanh. Đền có kết cấu mặt bằng theo kiểu "nội công ngoại quốc". Từ đường lớn đi vào qua tam quan là con đường vỉa gạch nghiêng đưa ta đến sân chầu. Hai bên đường, dưới bóng cây cổ thụ, có bày nhiều trâu đá, ngựa đá, voi đá và chó đá trông vừa uy nghiêm vừa dân dã. Chính điện khang trang chia làm ba lớp, nên thường được gọi nôm là tam cung. Trên các vì kèo, chắn gió, đặc biệt là cửa võng được chạm trổ tinh vi bằng nhiều họa tiết như: tứ linh, hoa lá, cá vượt Vũ Môn... Nội cung bày bài vị đức thành hoàng và năm bát nhang thờ của năm làng cùng nhiều đồ tế khí: tàn lọng, bát bửu, xà mâu và kiệu rước... Hai bên chính điện, cùng trông ra sân chầu là hai dãy nhà năm gian, ứng với năm thôn dùng làm nơi tiếp khách và nhận lễ trong mỗi kỳ lễ hội...
Đền Ba Xã tứ mùa bát tiết hương bay. Song nhộn nhịp tưng bừng hơn cả là kỳ lễ hội thường niên 12 tháng 6. Và như đã thành lệ, cứ năm năm một kỳ mở lễ hội to. Để chuẩn bị cho mỗi kỳ lễ hội, người năm thôn ở Minh Đức nuôi năm con nghé. Trước ngày lễ hội các con nghé được dắt đến thi. Con nào vào giải thì được chọn để hôm sau mở hội giết thịt tế thần và chia đều để năm thôn thụ lộc.
Ngày khai hội 12 tháng 6, từ sáng sớm, làng thôn đã rộn rã, tưng bừng. Người của năm thôn trống giong cờ mở, kiệu rước đưa thần thánh thờ trong bản hạt thôn mình về đền dự hội. Sau khi cả năm thôn, anh trước em sau đã tề tựu đông đủ, lễ rước nước bắt đầu. Vẫn theo thứ tự anh trước em sau, năm đoàn rước ra sông Nhuệ làm lễ rước nước. Đi đầu mỗi đoàn rước là đội cờ. Tiếp sau là đội nhạc, đội kiệu rước bát nhang hương án, và kiệu rước chum nước. Chum nước được quây quanh bằng vải trắng, miệng phủ vuông vải đỏ. Tới bờ sông năm thôn, mỗi thôn dùng năm chiếc chải ra giữa lòng sông lấy nước về làm lễ mộc dục.
Sau lễ mộc dục là lễ tế thần, lần lượt năm thôn làm lễ tế, tiếp sau là lễ tế của các dòng họ, các gia đình và khách thập phương. Trong khi ở chính đền long trọng diễn ra lễ tế, ở ngoài hồ ngoài bãi đền, diễn ra nhiều trò chơi sôi động như múa rồng, múa lân, chọi gà, đấu vật. Sôi nổi và cuốn hút người xem hơn cả là trò đập bị gạo và túm nước. Người ta treo nhiều bị gạo và túm nước lên một giá treo. Ai đập vào bị gạo thì được thưởng. Ai đập vào túm nước, túm nước vỡ ra bắn tung tóe vào người, khiến người xem xung quanh cười rộ lên.
Lễ hội đền Ba Xã đã từ lâu trở thành lệ của năm thôn: Thịnh Cầu, Thịnh Bằng, Thịnh Thần, Thịnh Thượng, Thịnh Hạ và dân chúng thập phương kéo về dự hội rất đông. Để phục vụ cho việc ăn ở của khách thập phương, nhiều người địa phương quần tụ gần đền dựng nhà, lập quán thành một nơi buôn bán sầm uất thời xưa. Chính vì lẽ đó mà ở gần đền Ba Xã ngày nay có một địa danh được gọi là: Phố Cống Thần.
Lễ hội Võng La tổ chức từ ngày 13 đến 15/1 âm lịch hàng năm, tại Đình Đại Độ, làng Đại Độ, xã Võng La, huyện Đông Anh. Lễ hội nhằm suy tôn Ngũ vị Tôn Thần: Quốc Công Đại Vương và Lã Nương Phu nhân Đại Vương cùng ba người con là Linh Khổn (Đệ Nhất Linh Tố Đại Vương), Minh Chiêu (Đệ Nhị Linh Tố Đại Vương) và Cung Mục (Đệ Tam Linh Tố Đại Vương).
Theo truyền thuyết và thần phả ở đình, vào thời Vua Hùng thứ 18 (Hùng Duệ Vương), ông Quốc Tế cùng vợ là bà Phùng Thị Loan (Lã Nương) làm nhiệm vụ trông coi kho bạc và lương thực ở xã Võng La. Hai vợ chồng đã tuổi xế chiều mà vẫn chưa có con. Một đêm, bà Lã Nương nằm mơ thấy có 3 con rắn trắng bò từ sông lên người. Sau đó, bà mang thai, đúng 9 tháng 10 ngày sau sinh ra ba người con trai và đặt tên là Linh Khổn, Minh Chiêu, Cung Mục. Ba người con trai lớn lên thông minh tài trí, văn võ và sức khỏe hơn người.
Được tin quân Thục Phán dẫn 100 vạn quân tinh nhuệ chia làm 8 mũi tấn công đất nước, Hùng Duệ Vương đã triệu tập các quan đại thần vào bàn kế sách đánh giặc. Được sự tiến cử của Tả Viên Sơn Thần, ba anh em Linh Khổn, Minh Chiêu, Cung Mục được vua phong làm tướng quân chỉ huy 2 đường tiến công là đường bộ và đường thủy để đánh quân Thục. Nhờ tài trí hơn người, chỉ trong một thời gian ngắn, ba anh em đã đánh bại quân Thục Phán. Trên đường trở về diện kiến vua, ba anh em không bệnh mà mất. Nhà vua vô cùng thương tiếc, truyền chiếu chỉ lệnh cho dân làng lập đền thờ phụng và tôn ba anh em làm Thành Hoàng làng, đồng thời sắc phong cho ba anh em là Đệ Nhất Linh Tố Đại Vương, Đệ Nhị Linh Tố Đại Vương, Đệ Tam Linh Tố Đại Vương, cùng thân phụ là Quốc Công Đại Vương và thân mẫu là Lã Nương Phu Nhân Đại Vương.
Hàng năm, xã Võng La có hai kỳ hội. Hội tháng Giêng âm lịch (hội chính) diễn ra từ ngày 13 đến ngày 15 để tưởng niệm ngày hóa của ba vị Đại Vương. Hội tháng Tám âm lịch diễn ra vào ngày 15 để tưởng niệm ngày sinh cũng là ngày hóa của phụ thân và phụ mẫu ba vị Đại Vương.
Diễn biến hội chính
Ngày 13/1: Buổi sáng, các cụ ông trong đội tế lễ mặc trang phục truyền thống làm lễ bao sái, mộc dục tượng, đồ thờ cúng và lễ tế mở cửa đình. Buổi chiều, đội tế nam tiến hành lễ tế nhập tịch, đội tế nữ làm lễ dâng hương tế Thánh.
Ngày 14/1 (Chính hội): Lễ rước kiệu được tổ chức từ sáng sớm. Đi đầu đoàn rước là đội múa sư tử, kế tiếp là phường bát âm, đội mang cờ, đồ bát bảo, đội khiêng kiệu, đội tế nam, đội tế nữ, đội lễ và dân làng. Những người khiêng kiệu đều là thanh niên khỏe mạnh, đạo đức tốt, chưa có gia đình.
Kiệu Ông (kiệu Long Đình) và kiệu của ba vị Đại Vương do các chàng trai khiêng, kiệu Đức Bà (kiệu Bát Cống) do các cô gái khiêng. Kiệu được rước từ đình đi xung quanh xã Võng La rồi sau đó quay trở lại đình. Khi kiệu yên vị tại sân đình, đội tế nam tiến hành lễ tế Thánh.
Buổi chiều, đội tế nam và đội dâng hương nữ của các thôn, xã lân cận làm lễ tế Thánh. Tối đến, chương trình giao lưu văn nghệ của xã Võng La với các xã khác được tổ chức.
Ngày 15/1: Buổi sáng, đội tế nữ trong trang phục truyền thống làm lễ dâng hương tế Thánh. Buổi chiều, đội tế nam làm lễ tế giã hội và phát lộc Thánh.
Trong những ngày lễ hội diễn ra rất nhiều trò chơi, hoạt động văn hóa như: múa sư tử, múa sênh tiền, hát quan họ, hát chèo, hát văn, cuộc thi cờ tướng, chọi gà, đu tre, đá bóng, bóng chuyền …