Tương truyền, bà Chúa Kho là người phụ nữ nhan sắc tuyệt trần, lại khéo tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng quốc gia trong và sau chiến thắng Như Nguyệt (1076), có công chiêu dân dựng lập làng xóm vùng Quả Cảm, Cô Mễ, Thượng Ðồng, giúp mọi người khai khẩn đất đai nông nghiệp… Sau này bà trở thành hoàng hậu (thời Lý), giúp nhà vua trong việc kinh bang đất nước, giữ gìn kho lương. Bà bị giặc giết trong lúc phát lương cứu đỡ dân làng. Cảm kích đối với tấm lòng bao dung của bà, nhà vua đã có chiếu phong bà là Phúc Thần. Nhân dân Cô Mễ nhớ ơn và lập đền thờ ở vị trí kho lương trước kia.
Đền Bà Chúa Kho được dân gian truyền gọi là “Ngân hàng địa phủ”. Ngôi đền nổi tiếng này được giới buôn bán làm ăn đặc biệt hay lui tới. Nhiều người bảo đền linh thiêng lắm, cầu xin ắt được như ý. Quanh năm đền đông khách vào ra thắp hương xin lộc, thành tâm cúng bái.
Ngày 14 tháng Giêng là chính hội Đền Bà Chúa Kho nhưng ngay từ những ngày đầu xuân năm mới, đông đảo người dân cả nước lại nô nức chảy hội đền để cầu tài lộc, bình an. Mặc dù nghi lễ “vay vốn” Bà Chúa Kho chỉ là một nghi lễ tâm linh nhưng người lễ bái phải thành tâm và giữa đúng lời hứa của mình. Người đến vay cần ghi trong sớ rõ ràng là vay bao nhiêu, vay để làm gì và ghi rõ thời gian sẽ trả (tạ lễ) là 1 năm, 2 năm hay 5 năm. Thậm chí, có một số người còn hứa vay một trả 3 hay vay một trả 10. Việc vay trả là tùy thuộc quan niệm mỗi người nhưng nhất thiết có “vay” thì phải có “trả” dù cho bạn có làm ăn được hay không.
Đồ bái lễ:
Lễ chay: gồm phẩm oản, quả, trà, hương hao dùng để dâng lên ban Thánh Mẫu.
Lễ mặn: bạn có thể dùng đồ mặn như thịt gà, thịt lớn hoặc là mua đồ chay hình tướng lợn, gà, chả, giò.
Lễ đồ sống: bạn tuyệt đối không được dùng các đồ lễ sống bao gồm trứng, muối, gạo hoặc thịt tại các ban Ngũ hổ, Thanh xà, Bạch xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ Phủ.
Cỗ Sơn Trang: bao gồm những đồ đặc sản chay của Việt Nam. Không dùng lươn, ốc, cua, chanh quả, ớt… Trong trường hợp bạn có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc lễ này.
Lễ ban thờ Cô, thờ Cậu: thường bao gồm hương hoa, quả, oản, lược, gương… Đây chính là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Đặc biệt, những lễ vật này nhỏ, đẹp, cầu kỳ và được đựng trong những chiếc túi đẹp mắt, xinh xắn.
Lễ thần Thành Hoàng, Thư Điền: để những lời cầu nguyện được linh ứng và có phúc thì bạn phải dùng đồ chay để tế lễ.
Khi kết thúc việc dâng lễ, khấn bái ở các ban thờ thì bạn có thể viếng thăm phong cảnh tại nơi thờ tự trong khi đợi hết một tuần nhang. Thắp hết một tuần nhang này bạn có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, bạn cần vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hóa vàng để hóa. Sau khi hóa sớ xong thì bạn mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ, bạn cần hạ từ ban ngoài đến ban chính. Đối với các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như lược, gương… bạn hãy để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có để riêng thì bạn nên gom vào đó mà không đem về nhà.
Đình Từ Phong thuộcThôn Từ Phong xã Cách Bi, huyện Quế Võ. Hàng năm hội đình Từ Phong được mở vào mồng 9 tháng 3 (âm lịch). Lễ hội mang đậm tính thuần phong mỹ tục, không những đã tạo nên những nét văn hóa độc đáo của địa phương, mà còn góp phần làm nên văn hiến của quê hương Bắc Ninh.
Trước kia, để lo việc đình đám từ trong năm làng đã cử 4 giáp (Đông, Nam, Đoài, Bắc) được nhận ruộng công để cấy lúa trồng màu, nuôi lợn tế, xôi gà, hoa quả. Lễ vật chính để tế Thành hoàng làng là một “lợn tạ” tế sống. Để lo phần tế lễ hương khói Thần tại đình làng 4 giáp lại cử ra 4 ông Quan đám.
Vào ngày đình đám, ngay từ ngày mồng 8, làng đã mở cửa đình làng làm lễ “mộc dục” lau ngai bài vị của Thánh. Sáng mồng 9, làng tổ chức rước kiệu Thánh từ nghè “Ba chạ” về đình làng để tế lễ và mở hội. Theo Thần tích sắc phong, Thánh được 3 làng (Đông Du, Từ Phong, Mai Cương) thờ là một vị khoa bảng có công với nước với dân. Đám rước Thánh có đầy đủ cờ, kiệu, tàn lọng, bát bửu, siêu đao, trống chiêng, bát âm. Sau khi kiệu Thánh được rước vào trong đình yên vị, làng tổ chức tế lễ Thánh bằng lợn của các giáp. Ngày 13, diễn ra tục rước Thánh sang thôn Hiền Lương (xã Phù Lương) để giao lưu “chạ” anh em. Hai thôn Từ Phong và Hiền Lương sát nhau đồng điền và để sinh tồn cũng giống như nhiều làng cổ khác hai thôn đã “kết chạ” anh em với nhau. Khi đã kết chạ thì hai làng coi nhau như anh em ruột thịt, cùng nhau bảo vệ đồng điền mùa màng, nguồn nước, giặc dã và mỗi khi đình đám hội hè thường rước kiệu Thánh sang nhau giao lưu văn hóa. Đây là một nét đẹp trong văn hóa làng xã. Đám rước được tổ chức quy mô, long trọng. Khi đám rước làng Từ Phong đến, quan viên thôn Hiền Lương đầu làng đón và đưa kiệu Thánh vào đình làng mình. Tại đình sẽ diễn ra phần tế lễ Thánh của quan viên tế 2 làng và phần hội giao lưu ca hát, ẩm thực. Sau phần lễ là phần hội với nhiều trò vui dân gian như: tuồng, chèo, đu cây, bắt vịt..., đặc biệt có múa rối nước ở đình Từ Phong vốn có nghề làm rối truyền thống và những ngày hội là dịp để các nghệ nhân trình diễn tài năng của mình trước cộng đồng làng xã và quý khách thập phương. Những tục trò dân gian trên đã thu hút đông đảo quần chúng nhân dân địa phương vào các hoạt động văn hóa văn nghệ vui tươi lành mạnh.
Cứ vào mồng 6 tết âm lịch, hàng ngàn người từ các vùng lân cận lại đến thôn Ném Thượng, xã Khắc Niệm, Tiên Du, Bắc Ninh tham dự một lễ hội liên quan đến tín ngưỡng phồn thực: lễ hội chém lợn tế thánh.
Tục truyền rằng: có một vị tướng cuối đời Lý tên Lý Đoàn Thượng, khi đánh trận chạy đến vùng núi này đồn trú đã chém lợn rừng nuôi quân. Từ đó, người dân đã mở hội chém lợn hằng năm để tưởng nhớ đến người có công khai khẩn vùng đất hoang vu này. Theo tín ngưỡng dân gian của vùng quê Kinh Bắc, máu lợn trong lễ tế thánh tượng trưng cho sự sung túc, khả năng sinh sản, sức sống tràn trề, mùa màng bội thu...
Khi lễ rước trở lại sân đình, hai thủ đao được dân làng chọn từ những gia đình hạnh phúc, con cháu đề huề, nuôi lợn mát tay, khỏe mạnh và phải đúng 50 tuổi - ra tay chém hai cụ ỉ tế thánh. Người dân mang tiền, dây cột gia súc, nông cụ... ra thấm máu lợn cầu may. Thịt lợn tế thánh được chia cho mọi người với mong muốn cả làng được phát tài, phát lộc.
Lễ hội đền Vua Bà là lễ hội lớn nhất, quan trọng nhất của làng Viêm Xá (Hoà Long-Yên Phong - Bắc Ninh) được tổ chức vào các ngày mùng 6, 7 tháng hai âm lịch. Hội đền Vua Bà cũng là hội Quan họ duy nhất trong vùng Quan họ, bởi đây là lễ hội Thuỷ tổ Quan họ. Mọi hoạt động trong lễ hội đều liên quan trực tiếp tới Quan họ và vị thần được rước trọng trong ngày hội Viêm Xá chính là Đức Vua Bà- Thuỷ tổ Quan họ.
Truyền rằng, ngày mùng 6 là ngày Đức Vua Bà được trời giáng xuống ấp Viêm Trang (làng Viêm Xá ngày nay). Bà là công chúa con gái vua Hùng Vương. Khi bà xấp xỉ tới tuần cập kê, có rất nhiều người đến cầu hôn. Vua cha liền tổ chức hội cướp cầu để chọn phò mã. song bà không ưng thuận lấy người thắng cuộc và xin với vua cha cho đi chu du trong nước. Bà và các thị nữ vừa rời khỏi kinh thành thì có cơn giông mưa to, gió lớn ập đến, cuốn cả đoàn người lên trời, rồi lại giáng xuống ấp Viêm Trang. Viêm Trang khi đó là vùng đất hoang dã, cây đước, lau sậy um tùm, rậm rạp. Bà cho khai phá đất hoang, bờ bãi, lập lên đồng ruộng, làng xóm, dựng vợ, gả chồng cho mọi người. Bà lại dạy người dân nơi đây cách làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm, trồng mía kéo mật. Bà sáng tác ra các bài ca và dạy nam thanh nữ tú hát. Sau khi Bà mất dân làng lập đền thờ tôn vinh bà là Đức Vương Mẫu, Vua bà- Thủy tổ Quan họ, và là thành hoàng của làng.
Ngày chính hội là mùng 6, nhưng từ chiều hôm mùng 5, dân làng đã tổ chức lễ mở cửa đền và lễ dâng hương, lễ cầu mưa rửa đền. Người làng Viêm Xá tin rằng lễ cầu mưa rửa đền này rất hiệu nghiệm. Quả thực, đêm ngày mùng 5, rạng ngày mùng 6 chẳng mấy năm không có mưa. Sáng hôm sau khi đám rước Vua Bà khởi hành, cũng là lúc trời quang mây tạnh. Lễ tế thần vào sáng mùng 6 bao giờ cũng có hát Quan họ ca ngợi công Đứa Vua Bà, cầu Đức Vua Bà cho mưa thuận gió hoà để mùa màng bội thu. Hát thờ ở hội đền Vua Bà chỉ được sử dụng giọng La rằng (làng Viêm Xá gọi là giọng A rằng). Về sau dân làng còn dựng và diễn sự tích Vua Bà ở ngoài trời, không diễn ở trong đền. Trong diễn tích có cả những câu thuộc hệ thống giọng lẻ, giọng vặt mang nội dung giao duyên nam nữ.
Thôn Châm Khê, xưa kia có tên chữ Bùi Xá, tên nôm làng Bùi, vốn là một làng Việt cổ nằm bên bờ nam sông Ngũ Huyện Khê (nay thuộc xã Phong Khê, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh). Cùng với giá trị kiến trúc điêu khắc, đình Châm Khê còn nổi tiếng với lễ hội truyền thống vào mồng 4 tháng 8 (âm lịch) hàng năm với nhiều tục trò, đặc biệt là tục “tắm phỗng” và hát Quan họ giao lưu.
Theo tục lệ, vào những ngày đình đám thì ngay từ mồng một, làng Châm Khê đã tổ chức “rước nước” để thờ và “tắm phỗng”.
Để rước nước và tắm phỗng, làng cử ra đội rước gồm: một ông Bồi trưởng và bốn thanh niên trai tráng khoẻ mạnh, chưa vợ, gia đình yên ấm. Ông Bồi trưởng mặc quần áo đỏ, tay cầm trống khẩu điều khiển đám rước. Còn bốn thanh niên rước kiệu cũng mặc quần áo, thắt lưng, khăn chít đầu đỏ. Buổi sáng mồng 1, đám rước nước từ giếng cổ trước cửa nghè trên bãi Sấm, mang vào đình để thờ Thành hoàng. Tiếp đó rước phỗng từ trong đình ra bãi Sấm để tắm phỗng, sau lại rước vào đình để thờ. Hai tượng phỗng có dáng “phỗng Chàm”: cao khoảng 0,70m, mặt gồ ghề, cởi trần đóng khố, hai tay giơ ngang ngực, đầu có hai búi tóc xoắn ốc hai bên, luôn được thờ trên hương án ngoài Tiền tế. Việc thờ phụng phỗng Chàm có ở một số di tích ở Bắc Ninh như đình Diềm, đình Hồi Quan, Đền Đô...; song việc rước và tắm phỗng thì hẳn chỉ có ở đình Châm Khê. ẩn sâu của tín ngưỡng này là “thờ Nước” của cư dân Việt cổ làm nông nghiệp, mà làng Châm Khê là một điển hình.
Sáng ngày mồng 4 là chính hội, dân làng tổ chức rước sắc phong của Thánh từ hai nghè trong và ngoài về đình để tế lễ và mở hội. Sau khi sắc phong được rước vào đình, quan đám và các giáp lần lượt vào lễ. Sau phần lễ là phần hội hát Quan họ giao lưu bằng thuyền trên sông. Tham gia vào hát Quan họ, không những có các bọn Quan họ nam và nữ của làng Châm Khê và các làng chạ, mà còn rất nhiều các làng Quan họ khác trong vùng. Các thuyền Quan họ nam và nữ từng cặp một, bơi quanh bãi soi để hát đối đáp giao duyên. Những liền anh, liền chị bồng bềnh trên những chiếc thuyền rồng, hát nhiều làn điệu và lời ca ngọt ngào, tha thiết. Cứ thế cho đến khi chiều tà trăng lên mới thôi. Hai bên bờ sông, dân làng và khách thập phương xem đông nghịt.
Đình Châm Khê với lễ hội truyền thống có các tục cổ như tắm phỗng, phong cờ, rước nước, hát Quan họ, phản ánh bề dày lịch sử, văn hoá của làng quê này, góp phần làm nên văn hiến xứ Kinh Bắc - Bắc Ninh.
Hội Lim là một lễ hội lớn đầu xuân vùng Kinh Bắc được tổ chức từ ngày 12 đến 14 tháng Giêng hàng năm, trên địa bàn huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Có giả thuyết cho rằng hội Lim có nguồn gốc từ hội chùa, hội hát, liên quan đến tiếng hát của chàng Trương Chi trong truyền thuyết Trương Chi - Mỵ Nương mà dấu xưa để lại là hình vết dòng sông Tiêu Tương khá rõ ở các làng quê vùng Lim. Hội Lim là hội của những làng xã cổ nằm quanh núi Lim và đôi bờ sông Tiêu Tương .
Hội Lim trở thành hội hàng tổng (hội vùng) vào thế kỷ 18. Khi quan trấn thủ xứ Thanh Hóa Nguyễn Đình Diễn là người thôn Đình Cả, Nội Duệ, xứ Kinh Bắc, có nhiều công lao với triều đình, được phong thưởng nhiều bổng lộc, đã tự hiến nhiều ruộng vườn và tiền của cho tổng Nội Duệ trùng tu đình chùa, mở mang hội hè, gìn giữ thuần phong mỹ tục. ông còn cho xây dựng trước phần lăng mộ của mình đặt tên là lăng Hồng Vân trên núi Lim. Do có nhiều công lao với hàng tổng và việc ông đặt hậu ở chùa Hồng ân, nên khi ông mất nhân dân tổng Nội Duệ đã tôn thờ làm hậu thần, hậu Phật hàng tổng. Văn bia lăng Hồng Vân có tên Hồng Vân từ bi ký niên đại Cảnh Hưng 30 (1769) hiện giữ ở đình thôn Đình Cả đã cho biết khá rõ lai lịch, công trạng và việc thờ phụng hậu hàng tổng Nguyễn Đình Diễn mỗi năm hai dịp vào "ngày sinh" và "ngày hóa" của ông tại lăng Hồng Vân và chùa Hồng ân trên núi Lim. Song trải tháng năm lịch sử, hội Lim đã có nhiều lớp văn hóa, trong đó người ta chỉ tổ chức tế lễ hậu thần vào một dịp là ngày 13 tháng giêng trùng với hội chùa Lim. Chính vì vậy mà có hội Lim và đây là hội hàng tổng.
Phần lễ
Ngày 13/1 Âm lịch, ngày hội chính,. Vào 8h sáng, Hội Lim được mở đầu bằng lễ rước. Đoàn rước với đông đảo người dân tham gia trong những bộ lễ phục ngày xưa, sặc sỡ sắc màu và cũng vô cùng cầu kì, đẹp mắt kéo dài tới cả gần km.
Trong ngày lễ, có nhiều nghi lễ và tục trò dân gian nổi tiếng, trong đó có tục hát thờ hậu. Buổi sáng ngày 13 tháng giêng toàn thể quan viên, hương lão, nam đinh của các làng xã thuộc tổng Nội Duệ phải tề tựu đầy đủ tại lăng Hồng Vân để tế lễ hậu thần. Trong khi tế có nghi thức hát quan họ thờ thần. Để hát thờ, các bọn quan họ nam và nữ của tổng Nội Duệ đứng thành hàng trước cửa lăng hát vọng vào. Trong khi hát, họ chỉ được hát những giọng lề lối để ca ngợi công lao của thần.
Phần hội
Có nhiều trò chơi dân gian như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm. Đặc sắc hơn cả là phần hát hội
Là phần căn bản và đặc trưng nhất của hội Lim. Từ hát mời trầu, hát gọi đò đến con sáo sang sông, con nhện giăng mùng. Hội thi hát diễn ra khoảng gần trưa, được tổ chức theo hình thức du thuyền hát quan họ. Tại một hồ nước nhỏ sát bên cánh đồng làng Lim, chiếc thuyền hình rồng được sơn son thiếp vàng rời bến trong những câu hát đậm đà nghĩa tình. Một bên thuyền là các liền chị, đối diện là những em nhỏ súng sính trong những tà áo tứ thân. Các liền anh thì đứng hoặc ngồi sát hai phía đầu và cuối thuyền. Tối ngày 12 sẽ là đêm hội hát thi quan họ giữa các làng quan họ. Mỗi làng quan họ có được dựng một trại tại phần sân rộng của đồi Lim. Đây là phần hội hay nhất của cả lễ hội Hội Lim.
Hội Lim lễ hội lớn của vùng Kinh Bắc ,với những hoạt động phong phú của lễ và hội đã có nội dung và tầm cỡ lễ hội văn hóa dân gian Kinh Bắc, gần như hội đủ những hoạt động văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh của các lễ hội trên vùng quê Bắc Ninh - mảnh đất được coi là vương quốc của lễ hội dân gian Việt Nam
Lễ hội đền Đô được tổ chức trong các ngày 14, 15, 16 tháng 3 âm lịch hằng năm tại làng Ðình Bảng, xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đây là lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, âm vang tiếng gọi cội nguồn nhằm kỷ niệm ngày Thái tổ Lý Công Uẩn đăng quang, khai mở cho một vương triều hưng thịnh, tạo dựng, phát triển quốc gia và nền văn hoá Đại Việt rực rỡ.
Lễ hội Đền Đô diễn ra trong 3 ngày (từ 14 – 16 tháng 3 âm lịch) nhưng chính hội là ngày 16/3 - ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi, có lễ trình thánh, rước kiệu long trọng. Ðám rước với hàng vạn người tham gia từ chùa Kim Ðài đến đền Ðô (khoảng 3 km). Ði đầu đám rước gồm có một đoàn tướng võ, cởi trần, đóng khố, tay cầm truỳ đồng và hàng trăm quân sĩ đi theo. Tiếp đến là 100 người khiêng kiệu mặc áo đỏ, mũ đen. Ði đầu là kiệu của Thánh Mẫu có 18 nữ tướng theo sau rồi đến kiệu Bát Ðế, mỗi kiệu một con ngựa và có 16 nam tướng mặc áo đỏ. Sau cùng đoàn rước là các vị mặc sắc phục lễ hội, hương lão và dân làng dự hội, cờ lọng che rợp đồng nội, tiếng trống vang trời.
Bên cạnh phần lễ, phần hội trong lễ hội Đền Đô gồm có các trò vui như chọi gà, thả chim bồ câu, thi đấu vật, hát Quan họ và nhiều trò vui khác.
Lễ hội Đền Đô là lễ hội truyền thống có từ lâu đời và trở thành phong tục được nhân dân Đình Bảng tự nguyện lưu giữ, trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Với những giá trị văn hoá lịch sử truyền thống, lễ hội Đền Đô như tiếng gọi cội nguồn nhắn nhủ các thế hệ mai sau hãy biết trân trọng và gìn giữ tinh hoa cha ông bao đời xây đắp.
Hằng năm vào ngày mồng tám tháng Tư, tại đình làng Gióng, tên chữ là làng Phù Ðổng, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh có mở hội kỷ niệm đức Phù Ðổng Thiên Vương, tục gọi là Ðức Thánh Gióng, rất linh đình và trang trọng.Hội đền Phù Ðổng Thiên Vương tục gọi là hội Gióng rất vui với cuộc rước lịch sử, diễn lại trận đánh giặc Ân của đức Thánh Gióng.
Hội đền Phù Ðổng Thiên Vương là một hội rất lớn do bốn xã thuộc tổng Phù Ðổng cùng tổ chức với sự tham gia của làng hội Xá, nên việc sửa soạn ngày hội cũng rất cẩn trọng, nhất là sửa soạn cho cuộc diễn lại thần tích đức Thánh Gióng phá giặc Ân.
Trong bốn xã này có hai xã Phù Ðồng và Phù Dực được luân phiên cử chủ tọa đám hội. Hai xã Ðổng Xuyên và Ðổng Viên chỉ đóng vai phụ tá trong đám hội và chỉ được đóng vai quân lính do thám. Mỗi xã được chia làm nhiều giáp, mỗi giáp tựa như một ấp hiện nay.
Hàng giáp phải cử lấy những người giữ các vai quan trọng trong cuộc diễn lại trận diệt giặc Ân. Những người này là các ông Hiệu, hiệu Cờ trông nom cờ lệnh, hiệu Chiêng điều khiển khiêng, hiệu Trống điều khiển trống. Còn một ông Hiệu Trung Quân để phối hợp điều hòa sự tiến quân và hai ông Hiệu Tiểu Cổ để đi tiên phong thám thính quân giặc.
Tất cả các ông Hiệu đều phải kén trong đám thanh niên từ 12 đến 26 tuổi. Có thể là những chàng trai đã lập gia đình rồi nhưng phải chay tịnh trong suốt thời gian sửa soạn cho đến ngày hội. Quân được chọn trong dân đinh bốn xã từ 18 đến 36 tuổi họp thành 10 cơ, mỗi cơ gồm một cơ trưởng và 15 cơ binh. Kẻ địch là quân tướng nhà Ân được tượng trưng bằng 28 thiếu nữ tuổi từ 10 đến 13 do hàng tổng cử ra để đóng vai 28 viên tướng giặc Ân, ăn mặc sặc sỡ, đeo đồ trang sức lộng lẫy.
Cờ lệnh bằng lụa màu lòng đỏ trứng gà, rộng ba tấc rưỡi và dài bảy vuông. Cờ do giáp chủ tọa may, đây chính là cờ đức Thánh Gióng dùng trong ngày diễn trận. Mỗi năm thay cờ lệnh một lần. Cờ năm trước, ông Hiệu cờ năm sau dùng để luyện tập trước ngày diễn trận.
Ðể phân biệt với những lá cờ khác, trên cờ sẽ có chữ "Lệnh" do một tay văn tự viết lên. Giáp chủ tọa trong mấy ngày đầu tháng tư sẽ lựa một ngày tốt, mời một bậc đại khoa nếu có, bằng không cũng phải mời một tay văn học tới viết chữ "Lệnh" này với sự chứng kiến của tất cả các ông Giáp trưởng bốn xã trong hàng tổng.
Cuộc diện trận đã được sửa soạn từ ngày mồng sáu tháng Tư. Ngay từ ba giờ chiều hôm mồng sáu, dân làng đã cử hành một đám rước tới giếng trước đền Mẫu, tức là Ðền Hạ, để lấy nước lau rửa tự khí dùng trong việc diễn trận. Nước đựng vào hai chỏe sứ. Hai mươi bốn quân sĩ của Phù Ðổng Thiên Vương sắp hàng hai theo bậc Giếng từ trên bờ tới mặt nước để lấy nước. Người cơ binh đứng ở bậc Giếng cuối cùng, sát mặt nước, múc nước vào một chiếc gáo đồng rồi chuyển cho người đứng cùng hàng với mình ở trước mặt. Người này nhận gáo nước rồi lại chuyển cho người đứng trước mặt mình bên bậc trên, đứng kế bên người vừa chuyển cho mình...
Cứ lần lượt như vậy, gáo nước được chuyển theo đường chữ "CHI" cho tới miệng Giếng đến tay người đứng bên chóe sứ. Ngườ i này đổ nước vào choé, lọc qua một miếng vải điều theo hiệu lệnh Cơ trưởng. Cơ trưởng mặc áo thụng xanh, đánh Kiểng để ra lệnh cho người cơ binh đổ nước vào choé. Tự khí được rửa bằng nước đã lọc đựng trong choé sứ ở ngay sân đình.
Ngày mồng bảy vào cuối giờ Tỵ, cờ lệnh được rước từ đền Mẫu đến đền Thượng và buổi chiều vào lúc giờ Mùi, hàng tổng đi kiểm soát lộ trình từ đền đến bãi trận. Có điều gì khiếm khuyết lập tức phải sửa chữa và bổ khuyết ngay.
Vào giờ Tỵ ngày mồng Chín có lễ tế cờ tại đền, có cả mổ trâu giết bò. Mọi người đều sẵn sàng để xuất trận. Mặt trận sơ sài, dưới chân Ðê có một hồ sen, địch quân chiếm đóng nơi hồ. Quân Phù Ðổng Thiên Vương tiến chiếm bờ hồ bên này, có một khoảng đất trống với nhiều mô nhỏ. Có ba chiếc chiếu đã trải giữa những mô đấy này. Giữa mỗi chiếc chiếu có một chiếc bát úp trên một tờ giấy: Chiếu tượng trưng cho cánh đồng, Bát tượng trưng cho đồi núi, Tờ giấy cho mây.
Cờ lệnh đã trương lên, ông Hiệu cờ tiếp lấy rồi tiến lên ba bước. Rồi ông đứng ở giữa chiếc chiếu, hai chân chụm vào nhau. Ông nhảy lên hai lần, sau đó ông quỳ gối bên phải xuống chiếu, bàn chân trái dẫm ra đằng trước như hình chữ "Lệnh", hai tay ông phất cờ lệnh, xoay mình ba lần. Dân chúng dự cuộc lúc đó mỗi lần ông xoay mình lại đếm theo. ông đứng lùi khỏi chiếc chiếu. Lập tức mọi người nhảy xô tới cướp lấy xé chiếc chiếu. Họ tin những mảnh chiếu mang may mắn cho họ, và những người hiếm con được mảnh chiếu có thể thấy được tin mừng.
Khi chiếc chiếu thứ ba được dân chúng xâu xé chia nhau hết quân giặc cũng tan, các tướng giặc cũng rút lui hỗn loạn. Kiệu của các cô thiếu nữ được rước về làng Phù Ðổng. Một tiệc khao quân lớn diễn ra ngay trước cửa đền. Trận tái chiến diễn ra ở bãi Sòi Bia thuộc làng Phù Ðổng. ở đây cũng lại có ba chiếc chiếu như ở Ðồng Ðàm. Ngày mùng mười tháng Tư, hàng tổng duyệt lại đạo binh thắng trận. Các khí giới được kiểm soát. Hàng tổng lạilàm lễ trước đền. Quân sĩ lại được khao thưởng. Thế là "thiên hạ Thái Bình". Sau ngày diễn trận, hàng tổng lại tổ chức rước nước để rửa lại khí giới, đồ thờ đã dùng trong việc chiến trận. Và có nhiều trò vui cho khách trẩy hội thưởng thức: đánh vật, hát chèo và có cô đầu hát thờ.
Ðến dự hội, người xem được chứng kiến nghi thức về một hệ thống lễ với các động tác thuần tục, uy nghi mang tính nghệ thuật và biểu tượng cao. Ðến hội, người ta có dịp cảm nhận được mối quan hệ hai chiều giữ a làng và nước, giữa cá nhân và cộng đồng, quá khứ và hiện tại như hòa nhập với nhau vừa thiêng liêng, vừa huyền ảo. Truyền thống yêu làng-yêu nước được giữ gìn như một tài sản văn hóa.
Chùa Dâu nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là ngôi chùa được đánh giá là xưa nhất Việt Nam. Hội chùa mở vào ngày mồng 8 tháng tư đó là ngày sinh của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Hội Dâu là hội của dân cư nông nghiêp, ý nghĩa quan trọng nhất của Hội Dâu là cầu cho mưa thuận gió hòa, ước vọng ngàn đời của cư dân nông nghiệp.
Các nghi thức trong Hội Dâu xét cho cùng đều là những hoạt động diễn xướng tín ngưỡng cầu Thần Nước của nông dân.
Ban ngày rước Tứ Pháp về chùa Dâu “công đồng” là hội tụ các yếu tố Mây+Sấm+Chớp=Mưa.
Ban đêm rước Tứ Pháp đi “tuần nhiễu” một vòng khép kín từ đông sang tây là mô tả chu kỳ quả đất xoay tròn, tạo ra năm tháng, bốn mùa.
“Múa gậy” không chỉ để dẹp đám mà còn tái diễn sự tích cây gậy thần kỳ. Giếng cổ trong chùa là dấu vết Man Nương cắm gậy xuống đất làm ra nước cứu sống sinh linh.
Đặc biệt cuộc thi “Cướp nước” được đón đợi nhiều nhất, là cuộc thi chạy giữa bà Sấm (Pháp Lôi) với bà Mưa (Pháp Vũ). Người ta bói xem ai về đích trước để dự báo mùa màng. Nếu là bà Mưa thì năm ấy được mùa. Nếu là bà Sấm thì năm ấy ruộng đồng lắm sâu, nhiều đỉa, làm ăn trắc trở.
Hội Thập đình là hội đình của 10 làng thờ Lê Văn Thịnh - Ông là một thái sư triều Lý được sinh ra tại đây. Những làng thuộc về hội thập đình là: Bảo Tháp, Yên Việt, Hương Vinh, Đông Cao, Hiệp Sơn, Tri Nhị, Địch Trung, Vân Xá, Huề Đông, Cứu Sơn. Hội được tổ chức từ ngày mồng 5 đến ngày mồng 9 tháng 2 âm lịch,trung tâm hội tại khu đình Bảo Tháp. Trước ngày khai hội, nhân dân Bảo Tháp phải dựng nhà gần khu đình, tiện nghi nội thất (sập, tủ...) các làng tham gia tổ chức hội tự lo, bảo đảm các yêu cầu tối thiểu để chức dịch các làng tiếp khách suốt quá trình hội.
10 làng thuộc về hội Thập Đình được phân thành ngũ đình nội và ngũ đình ngoại. Ngũ đình nội là những đình thờ cả hai vị Thành hoàng là Doãn Công và Lê Văn Thịnh (Doãn Công tương truyền là tướng của Hai Bà Trưng), gồm các làng: Bảo Tháp, Yên Việt, Hương Vinh, Đông Cao, Hiệp Sơn. Còn ngũ đình ngoại là những làng chỉ thờ một trong hai vị Thành hoàng làng gồm: Tri Nhị, Địch Trung, Vân Xá, Huề Đông, Cứu Sơn.
Ngày mồng 5 tháng 2, các làng rước về Bảo Tháp hội tụ. Đám rước cử hành trang nghiêm theo trình tự: Hàng cờ ngũ sắc đi đầu, tiếp đến long đình (có hòm sắc, bình hương), đến âm nhạc, rồi gươm trường bát biểu, tiếp là kiệu (có long ngai), sau long ngai là âm nhạc, rồi đến quan viên, tiếp đến xe trống và đôi ngựa trắng, hồng (bằng gỗ) sau cùng là dân trảy hội.
Việc hành lễ quy định nghiêm ngặt: chủ tế và thảo văn tế do Bảo Tháp đảm nhận, quan viên tế do 10 làng tiến cử, đọc chúc văn, đông xướng, tây xướng do Yên Việt, Hương Vinh và Thi Xá luân phiên đảm nhiệm:
Ngày mồng 5 tế nhập tịch, ngày mồng 6 đại tế, ngày mồng 7 và mồng 8 tế tốn, ngày mồng 9 tế tạ, giã hội.
Hoạt động hội diễn ra khá sôi động, với các hình thức vui chơi lành mạnh: Hát xẩm, hát chèo, ả đào (có năm tới 30 gánh đến xin hát), cờ bỏi, đấu vật, tam cúc điếm, tổ tôm điếm, đu tiên, đốt cây bông...
Ngoài những năm hội Thập Đình, dịp mồng 6 tháng 2 (âm lịch) hàng năm, ngũ đình nội thường tổ chức rước qua lại giữa các làng..
Ngày xuân thong thả, du khách trảy hội chơi xuân, về chơi hội Thập Đình, thắp nén hương thơm bái lạy hai vị thành hoàng, lòng sẽ thanh thản bởi đã tròn bổn phận; đắm mình trong đám hội với các thú vui của trò chơi truyền thống; lên đỉnh Thiên Thai chen chân bên những hàng cây tươi xanh, mây trời lúng liếng nghiêng chao, thả tâm hồn hướng vào Gia Bình đang cựa mình đổi mới phát triển, lòng ngất ngây về lễ hội Thập Đình giàu truyền thống văn hóa.
Làng Đồng Kỵ thuộc xã Đồng Quang, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh. Hội làng được tổ chức vào ngày mồng 4 tháng 1 âm lịch hàng năm. Tuy chỉ là một lễ hội ở quy mô nhỏ nhưng Hội làng Đồng Kỹ vẫn nổi tiếng khắp cả nước bởi duy trì được nét truyền thống đặc sắc. Trước kia lễ hội kéo dài hàng tuần nhưng nhiều năm trở lại đây lễ hội tập trung nhất vào mồng 4 tháng Giêng Âm lịch.
Hội rước pháo làng Đồng Kỵ là hoạt động tiêu biểu nhất mà người dân làng nghề giàu có nhất vùng Bắc Ninh còn lưu giữ được đến ngày nay, là nghi thức truyền thống được nhiều người dân mong đợi nhất trong suốt 3 ngày hội (mùng 4, 5, 6 tháng Giêng Âm lịch). Hội thi làm pháo và đốt pháo trước đây là tưởng nhớ, tái hiện lại âm vang ngày Thánh Thiên Cương - vị tướng sau này được dân tôn thờ làm thành hoàng làng ra lệnh xuất quân đánh giặc.
Lễ hội thực chất bắt đầu từ ngày mồng 3.Từ sớm ngày mồng 3 tháng Giêng, lễ rước thỉnh Đức Thánh Thiên Cương lên Đền Trung đã được thực hiện trang trọng .
Lễ rước pháo là nét đặc sắc nhất hội làng Đồng Kỵ. Mọi công việc cho Lễ rước pháo được chuẩn bị từ sớm ngày mồng 4 nhưng phải đến đúng 9 giờ sáng, hai quả pháo lớn được các thanh niên trai tráng trong làng rước từ nhà ông đám trưởng (Trưởng Ban Khánh tiết) ra đình cùng với đoàn tế hàng trăm người trong sự chứng kiến và háo hức của hàng nghìn khách thập phương.
Trong hội Đồng Kỵ tưng bừng nhất là tục rước pháo nhưng các hoạt động văn hoá thể thao xung quanh khu vực diễn ra hội làng cũng không kém phần sôi nổi. Đến Đồng Kỵ những ngày vào hội có thể nghe hát Quan họ trên thuyền cả ngày mồng 4 và các buổi sáng mùng 5, 6. Đây cũng là dịp để đội Tuồng làng thoả sức biểu diễn phục vụ bà con. Các vở Tuồng được diễn ngay trong sân đình, tối nào sân khấu làng cũng đỏ đèn, có khi buổi chiều tiếng trống Tuồng lại vang vang giục giã mọi người đến xem. Đặc biệt, cả Quan họ và các tích Tuồng cổ đều do người làng thể hiện. Giải Vật cổ truyền thu hút hàng chục đô vật từ 7 tỉnh về tranh tài; các môn Cầu lông, bóng chuyền, Cờ tướng, Chọi gà… thể hiện nét văn hoá lành mạnh trong lễ hội làng Đồng Kỵ
Làng Hòa Đình xưa tên chữ là Lồi Đình, tên nôm làng Nhồi, nay thuộc xã Võ Cường, thành phố Bắc Ninh. Từ lâu, làng Nhồi đã là trung tâm giao lưu kinh tế-văn hóa và nổi tiếng “Hội Nhồi” vào mồng 7 tháng Giêng (âm lịch) với tục rước “Bà Đống”.
Tương truyền, xưa kia Thành hoàng làng Nhồi là “Bà Đống”, ngự tại một gò đất ngoài đồng (Đống Cả) thuộc làng Đống Cao. Mỗi khi vào hội làng, dân làng tổ chức rước Thành hoàng về đình và chùa. Lễ rước được tiến hành như sau:
Tối ngày mồng 6, đám con gái làng Nhồi gồm 12 cô chưa chồng, xinh đẹp, nết na tụ tập “ngủ bọn” tại một nhà. Đến quá nửa đêm, khi chuông chùa làng thỉnh, các cô gái lập tức cùng ông Tiên Chỉ rước kiệu Bà Đống đến gò Đống Cả làng Đống Cao, rước Thành Hoàng làng về. Sau khi ông Tiên Chỉ đốt hương khấn vái xin rước Bà Đống, các cô gái ngả kiệu kính cẩn rước Bà Đống về làng. Kiệu rước làm bằng tre tươi, trang trí bằng lá cây tươi và các loại hoa thơm. Đòn khiêng kiệu dán giấy ngũ sắc. Đi đầu đám rước là hai cô gái khiêng một trống cái, một cô đi bên vừa đi vừa đánh nhịp ba. Theo sau trống là hai cô gái khiêng chiêng đánh phối với nhịp trống. Kế đến là các cô gái rước kiệu Thành hoàng.
Khi chiêng trống nổi lên thì đám trai làng Đống Cao cũng 12 người chạy ra giằng kiệu. Bên đó đã chuẩn bị sẵn một số đòn lao nhỏ, nhẹ, dán giấy ngũ sắc. Trong khi hai bên giằng co ra vẻ quyết liệt, thì đám trai làng Đống Cao dùng đòn lao dí vào rốn các cô gái làng Nhồi. Cuộc “giao tranh” chỉ kết thúc khi đám con gái làng Nhồi ra khỏi địa phận làng Đống Cao. Đám rước Bà Đống về đến làng Nhồi cũng là lúc trời tảng sáng, người ta rước Bà Đống vào trong đình và sang chùa. Bên trong đình, chùa quan Đám làm lễ thờ Thành hoàng làng. Bên ngoài các “bọn” Quan họ cất tiếng hát ca ngợi công đức của Thần, Phật. Khách thập phương kéo đến dự hội rất đông. Để đón khách, các bọn Quan họ của làng ra tận cổng đón bằng những câu ca Quan họ ngọt ngào, niềm nở. Bên khách tay bưng cơi trầu vào lễ Phật cũng đáp lại chủ bằng những câu ca Quan họ mượt mà, tinh tế. Các bọn Quan họ chủ và khách cùng nhau vào đình, chùa lễ Thần, Phật, rồi quay ra hát Quan họ đối đáp giao lưu. Các Liền anh, Liền chị vừa hát vừa têm trầu, mời nước, hỏi thăm nhau... cứ như thế cuộc vui kéo dài suốt ngày hội.
Tín ngưỡng thờ Bà Đống của hội làng Nhồi có nguồn gốc từ tín ngưỡng thờ nữ thần nông nghiệp của người Việt cổ trồng lúa nước vùng châu thổ Bắc Bộ nói chung, của xứ Kinh Bắc nói riêng và làng Nhồi là một điển hình. Thần nữ nông nghiệp được người Việt cổ tôn thờ chính là các lực lượng tự nhiên gắn với nông nghiệp: đất, đá, gò, đống, cây cối, mây, mưa, sấm, chớp. Những yếu tố tự nhiên này được thần thánh hóa và bảo lưu đến ngày nay trong văn hóa lễ hội, trong đó có lễ hội làng Nhồi.
Nằm ven sông Đuống thuộc phía nam huyện Quế Võ là một vệt các làng cổ, trong đó có Mộ Đạo tên nôm làng “Đậu”. ở đây có ngôi đền cổ được gọi là đền Đậu, là nơi chính đền của 3 tổng 9 làng xã xưa, tương truyền thờ danh tướng có công đánh giặc vào thời Hùng Vương. Cũng từ lâu đời, hội của 9 làng vùng ven sông Đuống này đã trở thành hội vùng nổi tiếng. Theo tục lệ, cứ 3 năm một lần vào các năm (Tý, Mão, Dậu), ngày 16 đến ngày 20 tháng 3 (âm lịch) 9 làng trên lại mở hội chung tại đền Đậu .
Những làng thuộc về hội đền Đậu, xưa thuộc 3 tổng (Mộ Đạo, Đại Toán, Quảng Lãm) và nay thuộc 3 xã (Mộ Đạo, Chi Lăng, Yên Giả) gồm các làng sau: Mộ Đạo, Đức Tái, Đô Đàn, Tập Ninh, Trúc Ổ, Mai Ổ, Trạc Nhiệt, La Miệt, Yên Giả. Trong 9 làng cùng thờ thánh trên thì đền Mộ Đạo là nơi chính đền (anh Cả), 8 làng còn lại được gọi là hàng từ và phân thành 3 “tích”: Tích nhất gồm 3 làng (Mộ Đạo, Trạc Nhiệt, Mai Ổ), tích nhì (Tập Ninh, Đức Tái, Đô Đàn), tích ba (Trúc Ổ, La Miệt, Yên Giả). Những làng trên còn bảo lưu được thần phả sắc phong, bia đá, hoành phi, câu đối ghi chép phản ánh về người được thờ. Căn cứ vào thần tích, sắc phong thì thần được thờ của 9 làng trên là “Bình Thiên hiển đức đại vương” là một danh tướng có công đánh giặc vào thời Hùng Vương 18, thần thường linh ứng phù giúp các triều vua đánh giặc và nhân dân người khang vật thịnh, nên các triều vua đều gia phong mỹ tự và có sắc lệnh cho 9 làng xã nơi đây phải thờ phụng.
Để chuẩn bị cho lễ hội, từ trong chức sắc của 9 làng phải tổ chức họp bàn với nhau. Làng Mộ Đạo có chính đền, thuộc tích nhất, phải chuẩn bị những lễ vật để tế thần tại đền Đậu như: Lễ Tam sinh (lợn, dê, ngỗng trắng), lợn tượng (lợn tạ) và các loại rượu, bánh trái, hoa quả đặc sản của địa phương (rượu Hoàng tửu, bánh đường, chè kho, chè lam, kẹo lạc…). Những làng còn lại, mỗi làng phải lo một lợn tượng để tế thần. Sáng ngày 16 tháng 3, tất cả 9 làng đều phải rước kiệu thần từ đình làng mình đến tập trung tại đền Đậu để tế lễ và mở hội. Đoàn rước kiệu của các làng, vai cờ kiệu là “giai trần” (trai tráng cởi trần, đóng khố), đầy đủ cờ kiệu, tàn lọng, siêu đao, bát bửu, trống chiêng và còn phải có đội “quân cờ”. Đội quân cờ có tướng cờ và quân cờ, mặc trang phục màu đỏ, tướng cờ có lọng che và đội quân cờ này là tượng trưng cho nghĩa binh của thần khi đánh giặc. Khi các đoàn rước của các làng tập trung đông đủ tại đền Đậu, theo thứ tự kiệu của các làng được rước vào đền trong, đền ngoài các quan viên tế của các làng cùng tế. Trong khi tế lễ có hát ca trù để thờ thần. Làng Mộ Đạo là một trong cái nôi của hát ca trù, các nghệ nhân không những tham gia hát thờ, mà còn tham gia hát hội. Lễ hội đền Đậu kéo dài đến ngày 20, sau khi tế “rã đám” thì kiệu thần của làng nào lại được rước về làng ấy.
Trong những ngày lễ hội đền Đậu, sau phần lễ là phần hội với nhiều tục trò dân gian vui chơi, giải trí như: Tuồng, chèo, ca trù, đu cây, thi vật, thi dệt vải, nhảy phỗng, bắt vịt, bắt trạch… thu hút hàng ngàn người đến lễ hội.
Lễ hội đền Đậu đã trở thành một nét văn hiến tiêu biểu của xứ Kinh Bắc – Bắc Ninh.
Làng Dương Lôi thuộc phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Lễ hội làng Dương Lôi được tổ chức từ cách đây hàng nghìn năm để tưởng nhớ, tôn vinh bà Phạm Thị – người sinh vua Lý Thái Tổ, khai sáng vương triều Lý ở thế kỷ XI. Dân làng đã lấy ngày sinh của vua Lý Công Uẩn (12-2 âm lịch) mở hội làng. Ngày xưa, lễ hội Dương Lôi tổ chức rất to và kéo dài gần chục ngày. Đặc biệt nghi thức tế lễ ở trong đình rất uy nghiêm, long trọng. Còn tục lệ rước thì rất đông và hoành tráng, đoàn người kéo dài hàng nửa cây số, suốt từ Đền về Đình (Với ý nghĩa “nhà Vua đón mẹ về dự hội” !
Dương Lôi hiện còn di tích mộ thân phụ, thân mẫu của bà Phạm Thị ở khu vực cánh đồng Miễu (dân làng gọi là mộ tổ), di tích chùa Minh Châu, chùa Cha Lư, đền Lý Thánh Mẫu… Ngoài ra, còn một số tài liệu khắc trên đá, chuông đồng, trên giấy. Qua nhiều năm, cụm di tích đình, đền, chùa làng Dương Lôi vẫn còn lưu giữ nhiều dấu tích thời Lý cùng các hoạt động tâm linh, tín ngưỡng, lễ hội…
Ngày khai hội, người dân trong thôn tổ chức nghi lễ rước Đức Thánh Mẫu và 8 vị Vua triều Lý từ Đền Miễu về Đình. Đoàn rước gồm 24 bộ phận với khoảng 1000 người, trong đó đông nhất là con cháu thuộc dòng họ Phạm.
Sau nghi lễ rước là các hoạt động tế lễ, dâng hương. Phần hội được tổ chức phong phú, sôi nổi với các hoạt động giao lưu văn hóa, thơ ca, thư pháp, giới thiệu sách, hát Quan họ, thi đấu thể thao cùng nhiều trò chơi dân gian như: chọi gà, đấu vật…
Phù Lưu là ngôi làng cổ ở Đông Ngàn, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh. Làng còn có tên gọi là làng Giầu (Trầu hay Chợ Giàu, là nơi có truyền thống buôn bán và văn hóa lâu đời, quê hương của nhiều trí thức, văn nghệ sĩ nổi tiếng thời kỳ cận hiện đai. Hội làng Phù Lưu được tổ chức vào mồng 8 tháng 3 âm lịch hàng năm. Hội thờ Phật và Thành hoàng. Thành hoàng của làng là một vị thần Mẫu, vốn là mụ ả tu đắc đạo có phép hô phong hoán vũ. Khi hạn hán dân thường cầu Bà hóa phép làm mưa nên tôn Bà là Thành Hoàng. Ngày tổ chức hội là ngày hóa của Bà.
Trong những ngày chuẩn bị lễ hội, đình, đền, chùa được lau dọn sạch sẽ, khánh tiết trang trọng, đường làng ngõ xóm phong quang. Mọi người trở nên vui vẻ, thân mật, cởi mở, xoá bỏ mọi bất hòa trong đời thường để “cầu phúc”. Những người tham gia ban tế còn phải chay tịnh, phải sạch sẽ.
Ngày khai mạc Hội Lệ, có lễ rước Thánh từ đền ra đình. Đi đầu đám rước là điệu múa sư tử trong tiếng trống rộn ràng, hàng ngũ rước cờ thần, kiệu Ông, kiệu Bà, đội tế nam, đội tế nữ. Các cụ cao tuổi nhất trong làng được tôn vinh, mặc quần áo đỏ có con cháu mặc lễ phục đi theo che lọng. Hàng các cụ tôn, cụ thượng là các đoàn thể Hội CCB, Hội NCT, các chạ anh, chạ em, các tổ đồng canh, đồng học... Đội nào cũng rước mâm chiêng trống, đàn sáo vang lừng.
Về đến đình làng, sau khi hạ kiệu, việc hành lễ bắt đầu. Các chấp sự trong ban tế mặc áo thụng xanh đội mũ tế. Ông chủ tế đọc văn tế và “Nhập tịch cầu phúc”.
Sau phần lễ là phần hội có những trò vui: đánh cờ, đu, đấu vật, bơi, rước ngựa chiến, chọi gà, tổ tôm điếm... Các cuộc thi như thi thổi xôi, làm cỗ gà, làm bánh vừng, chè đu đủ, dệt vải, bình thơ, xướng đối... Ngoài ra còn có các điếm hát quan họ ở ngoài đồi, trong nhà, trên thuyền
Lễ hội làng Phù Lưu thể hiện lối sinh hoạt văn hóa mang tàn dư việc thờ nữ thần của các cư dân nông nghiệp nói chung và người Kinh Bắc nói riêng
Làng Tam Tảo thuộc xã Phú Lâm, huyện Tiên Du- một làng quê có lịch sử lâu đời của xứ Kinh Bắc- Bắc Ninh. Người TamTảo không chỉ tự hào là làng quê có lịch sử lâu đời, mà nơi đây còn lưu giữ kỷ niệm về các danh nhân triều Lý- những ân nhân của Lý Công Uẩn, vị vua khởi nghiệp một triều đại vàng son và hiển hách lịch sử dân tộc. Hội làng Tam Đảo được mở vào ngày 10-2 âm lịch hàng năm để kỷ niệm ngày sinh của ông bà Trần Quý ân nhân của vua Lý Công Uẩn . Đây là lễ hội lớn nhất trong năm của nhân dân Tam Tảo.
Những tài liệu cho biết khá rõ về vợ chồng ông bà Trần Quý đã cứu Lý Công Uẩn thoát khỏi sự truy đuổi của quan quân nhà Lê. Lý Công Uẩn là quan đại thần dưới triều Tiền lê ,nhân lúc triều Tiền Lê suy thoái, trăm họ oán thán, đã mưu lập nên nhà Lý. Trong cuộc binh biến này, Lý Công Uẩn thất trận chạy về Kinh Bắc, đến trang Tam Tảo, được ông Trần Quý và vợ là Đặng Thị Phương Dung cứu thoát nạn. Sau khi lên ngôi hoàng đế, Lý Công Uẩn phong cho ông Trần Quý là Phụ quốc Tán trị, vệ dực bảo quốc và bà Đặng Thị Phương Dung là Hoàng thái hậu.
Sau khi hai ông bà mất, nhân dân Tam Tảo lập đền thờ ngay trên khu đất hai ông bà ở, gọi là đền Hộ Quốc, tức đền giúp nước. Đền có quy mô khá lớn, nơi nhà vua thường đến tế lễ để tỏ lòng nhớ ơn. Các triều đại sau đều tiến hành tu bổ, tôn tạo, vì vậy đền Hộ Quốc còn lại đến ngày nay.
Hội làng ngày mồng 10 tháng 3 được dân làng tổ chức rất quy mô, chu đáo, thường kéo dài trong 3 ngày, với các nghi thức tế lễ, rước sách rất uy nghiêm.
Cuộc rước với kiệu cùng lễ vật, với tàn, quạt, siêu đao, bát biểu, các đồ thần khí, tế khí, trống chiêng, phường bát âm… bắt đầu từ đình sang nghè và chùa, rồi tới đền Hộ Quốc rước bài vị ông bà Trần Quý về đình. Cuộc rước thật uy nghi, hoành tráng, với hàng nghìn người tham gia, kéo dài hàng cây số, với màu sắc rực rỡ, âm thanh vang động, biểu hiện sự nhớ ơn, tôn kính của mọi người dân Tam Tảo đối với công lao của ông bà Trần Quý.
Cùng với tế lễ, nhiều trò chơi dân gian được tổ chức như múa rối nước, đu tiên, cờ người, thi dệt vải, thi bắt chạch trong chum, vật, hát chèo, ca quan họ, diễn tuồng. Lễ hội Tam Tảo là lễ hội lớn, thu hút người dân trong vùng và khách thập phương tới tham dự. Đặc biệt trong ngày hội, dân làng Tam Tảo được đón tiếp các vị khách quý có liên quan đến triều Lý. Đó là nhân dân Đình Bảng, quê hương của Lý Công Uẩn, nhân dân thôn Dương Lôi, quê hương bà Phạm Thị, thân mẫu của Lý Công Uẩn, nhân dân Tiêu Thượng, nơi có chùa Tiêu Sơn là chốn trụ trì hành đạo của Thiền sư Vạn Hạnh- người có công nuôi dạy Lý Công Uẩn và giúp ông lên ngôi, khai mở vương nghiệp triều Lý, Nhân dân các làng trên đã cử đại biểu mang lễ vật, hương hoa về tế lễ tại đền Hộ Quốc và đình Tam Tảo, được đón tiếp chu đáo, tận tình.
Lễ hội tưởng niệm Cao Lỗ Vương được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng Ba âm lịch hàng năm, tại làng Tiểu Than, xã Vạn Ninh, huyện Gia Bình. Lễ hội nhằm tưởng nhớ, ghi khắc công lao muôn đời của các bậc tiền nhân- những người có công đánh giặc giữ nước, giữ yên bờ cõi.
Theo những sử liệu, thần tích còn lưu truyền, Cao Lỗ người quê vùng Lục Đầu- Bình Than, trong cuộc chiến đấu đánh đuổi giặc Triệu Đà bảo vệ nhà nước Âu Lạc, ông đã anh dũng hy sinh ở chân thành Cổ Loa, thi hài được hổ tha về quê. Dân làng trông thấy liền kéo nhau ra đánh đuổi hổ và làm lễ an táng ông, dấu tích xưa còn đó là lăng mộ ông tại làng Tiểu Than. Đền thờ ông tại làng Đại Trung, đình làng Tiểu Than và lăng mộ Cao Lỗ Vương đều được Nhà nước công nhận di tích lịch sử văn hoá Quốc gia.
Vào ngày mồng 10 tháng Ba âm lịch- ngày sinh của Cao Lỗ Vương, người dân 7 làng quanh vùng cùng phối hợp tổ chức tế lễ ở đền Đại Trung, sau đó mỗi làng đều tổ chức lễ hội theo tục lệ để bày tỏ lòng tri ân công đức vị danh tướng của quê hương. Với làng Tiểu Than, lễ hội có những nét độc đáo riêng. Ngày mùng 9 tháng 3 dân làng tổ chức rước Long Đình cùng nhiều lễ vật ra lăng mộ Ngài làm lễ tuyên văn, sau đó vào nhà cụ Thủ sắc (người chuyên giữ sắc thờ của làng) rước văn ra đình.
Sáng ngày mùng 10 tiến hành rước song hành kiệu và lễ vật xuống đền làm lễ tế chung. Đám rước uy nghiêm gồm trống khẩu, lọng, quạt, chiêng trống cùng long đình, bát bửu, cờ hội, súng lệnh...
Trong những ngày hội, làng tổ chức nhiều hoạt động, trò chơi dân gian như vật, tam cúc điếm, hát cô đầu; đặc sắc nhất là trò múa bông, đuổi bệt, tạo nét hấp dẫn riêng trong không gian lễ hội nơi thôn quê. Tương truyền cây bông bằng tre được vót như đũa bông làm 3 đoạn với 6 phôi bông. Người múa bông là một thôn nữ thanh tân mặc áo the thắt lưng bó cạnh, hai tay cầm hai cây bông múa theo điệu trống giữ nhịp. Mỗi tiết mục múa khoảng hơn nửa tiếng, trước khi kết thúc cô gái đưa cây bông lên miệng ngậm một vài sợi phôi sau rồi vứt cây bông ra, dân làng xô nhau đến cướp. Ai tranh được coi như năm ấy gia đình, họ tộc sẽ gặp nhiều may mắn tốt lành. Với trò “Đuổi bệt” còn gọi là đuổi hổ được lưu truyền nhằm diễn lại sự tích dân làng đuổi hổ lấy thi hài Cao Lỗ Vương để an táng. Vào hội dân làng cho đặt một cái bàn trước nhang án và quây màn tượng trưng làm một quán rượu. Trong màn, một bậc cao niên đóng vai ông chú đang uống rượu say, bên ngoài là hai cháu bé một trai một gái. Khi vị quan viên cầm sách đọc bài “Văn dã”, hai cháu đọc lại theo từng nhịp, hết mỗi đoạn lại quay ba vòng. Phía ngoài, người đội lốt hổ là một thanh niên đang lấp ngoài đầu đình với cành cây che kín. Bài văn dã kết thúc, ba chú cháu cùng cầm gậy ra đuổi hổ. Người và hổ giao tranh ba vòng xung quanh đình, khi hổ mệt chạy ra Miễu (khu vực lăng mộ Cao Lỗ Vương), ba chú cháu lấy được lốt hổ đem đốt tượng trung cho việc đã giết được hổ giành lại thi hài Cao Lỗ Vương và dân làng đem an táng tại Miễu.
Lễ hội tưởng niệm Cao Lỗ Vương ngày nay vẫn được người dân 7 làng cùng tôn thờ ông phối hợp tổ chức nhiều nghi thức tế lễ, rước sách uy nghiêm tại đền, mở nhiều hoạt động văn hoá, trò chơi dân gian tại đình chùa làng, thể hiện đạo lý truyền thống uống nước nhớ nguồn, tình đoàn kết gắn bó bền chặt của các làng xã vùng sông nước Lục Đầu- Bình Than- nơi ghi dấu ấn nhiều chiến công lừng lẫy trong lịch sử chống xâm lược của nước Đại Việt xưa.
Lễ hội chùa Bút Tháp là môt lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm vào ngày 23 và 24 tháng 3 âm lịch hàng năm tại chùa Bút Tháp, thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.Với các hoạt động đậm nét văn hóa truyền thống, lễ hội góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Lễ hội gồm 2 phần:
Phần Lễ, diễn ra chủ yếu trong khu nội tự với các nghi lễ truyền thống như: Lễ cúng Phật, Lễ dâng hương Lễ cúng đàn trần tế cầu phúc, Lễ cúng Tổ…với sự tham gia của đông đảo người dân và du khách thập phương.
Sau phần Lễ đến phần Hội, với các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao: Cờ tướng, bóng bàn, thi thả chim bồ câu và biểu diễn nghệ thuật Chèo… Các hoạt động này không chỉ thu hút nhân dân trong tỉnh, mà còn có sự tham gia, giao lưu của nhiều đoàn văn nghệ, thể thao ở các tỉnh khác như Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên…
Chùa Bút Tháp là một trong những di tích Phật giáo độc đáo của đồng bằng Bắc Bộ Việc tổ chức lễ hội truyền thống Chùa Bút tháp đã phần nào đáp ứng nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của nhân dân và khách thập phương.
Lễ hội làng Vọng Nguyệt được tổ chức trong ba ngày 25, 26, 27 tháng 2 âm lịch hàng năm, tại thôn Vọng Nguyệt, xã Tam Giang, huyện Yên Phong. Lễ hội tổ chức nhiều hoạt động mang tính chất truyền thống và hiện đại tưởng nhớ các bậc tiền nhân có công lập làng.
Vọng Nguyệt xưa có tên gọi là làng Thứ Nhị hay còn gọi là làng Ngột Nhì. Vào thời Nguyễn thuộc tổng Nội Trà, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Làng nằm ở bên bờ Nam sông Cầu là vùng quê có phong cảnh thơ mộng trữ tình với một quần thể di tích đình, đền, chùa đẹp nổi tiếng đất Kinh Bắc xưa. Từ bao đời nay nơi đây vẫn có nghề trồng dâu nuôi tằm gắn bó với cuộc sống và tình yêu lao động của mỗi một người dân.
Vọng Nguyệt không những nổi tiếng trong dân gian là vùng đất khoa bảng tiêu biểu của huyện Yên Phong với 8 vị đỗ đại khoa và nhiều vị đỗ cử nhân tú tài vào thời phong kiến mà còn là một vùng quê giàu truyền thống cách mạng kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Vọng Nguyệt còn là một trong những làng Việt cổ với những di sản văn hoá vật thể, đánh dấu những mốc son thăng trầm của một cộng đồng làng xã trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. Chùa Vọng Nguyệt (tên chữ là Khai Nghiêm tự) do Nguyệt Sinh công chúa nhà Lý dựng. Đến thời Lê và Nguyễn chùa Khai Nghiêm được tu sửa lớn, dựng thạch trụ thiên đài vào năm Vĩnh Thịnh nguyên niên (1705), đúc chuông đồng lớn vào năm Cảnh Thịnh thứ 7 (1799) và tạc nhiều pho tượng Phật. Đời Dụ Tông (1341-1369) Hàn lâm học sỹ Trương Hán Siêu soạn văn bia, khắc trên đá.
Lễ hội Vọng Nguyệt diễn ra trong vòng 3 ngày với đầy đủ các nghi lễ:
Trong ngày hội, có rất nhiều tốp được phân chia nhiệm vụ để rước lễ vật. Gồm một nhóm các em thiếu niên nữ và nam, các cụ ông, cụ bà, thanh niên nam nữ riêng mỗi tốp sẽ có một nhiệm vụ rước từng lễ vật khác nhau như, ngựa ông, ngựa bà, lọng, kiệu...Đoàn rước đi từ đình làng ra chùa và đi qua các ngõ lớn trong làng.
Đi dẫn đầu đoàn rước là một nhóm múa lân gõ chiêng trống inh ỏi và góp lộc của các hộ dân hai bên đường của đoàn rước ban phát, biểu thị sự no ấm đầy đủ, đi sau là người mặc bộ áo dài đỏ (người có chức sắc trong làng thời xưa) dẫn đầu cho đoàn rước.
Từng đoàn rước nối đuôi nhau đi trong tiếng kèn trống chiêng rỗn rã cộng với nhóm múa lân vui nhộn trên đường, rất đông những người già người trẻ đứng ra hai bên đường để ban lộc cho đoàn rước và xem lễ hội
Tất cả các đoàn rước được đi về ngôi chùa cổ của làng để tập trung và lễ hội chính sẽ được tổ chức ở đây, các nghi thức trang trọng và các màn ca múa dân gian được tái hiện lại như các lễ hội thời xưa.
Từng đoàn rước được quy tụ vào sân chùa để tiến hành nghi lễ trang trọng cúng hoàng làng. Có rất đông du khác thập phương và bà con cùng tham gia lễ hội. Vừa ôn lại nét văn hóa dân gian vừa có dịp vui chơi trong ngày hội và gìn giữ những nét văn hóa ấy cho thế hệ mai sau.
Trên một khúc sông nhỏ các liền anh liền chị hát quan họ tình tứ, người Bắc Ninh có một giọng hát bẩm sinh, không chỉ những liền anh liền chị chuyên nghiệp mới có thẻ hát hay mà hầu hết trong lễ hội đều có sự góp mặt của các giọng hát vẫn luôn chân lấm tay bùn với nghề nông.
Bên cạnh đó, lễ hội còn tổ chức nhiều trò chơi dân gian và hoạt động văn nghệ thể thao như: chọi gà, bóng chuyền, bóng đá, văn công…Ngoài các trò chơi dân gian được tổ chức một cách quy mô như lễ hội vật, vật vốn là một trong những trò chơi dân gian chính trong các lễ hội, về với hội làng có nhiều đô vật ở các tỉnh có truyền thống vật như Hà Tây diễn ra sôi nổi thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia thi đấu và cổ vũ.
Lễ hội luôn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng mỗi người dân Vọng Nguyệt và du khách thập phương. Bên cạnh sự đổi mới về kinh tế xã hội, thì những nét đẹp về mặt thuần phong mỹ tục của làng Vọng Nguyệt vẫn luôn được gìn giữ và bảo tồn xứng danh một vùng quê văn hiến xứ Bắc.
Lưng chừng núi Dạm có ngôi chùa Dạm cổ kính. Hàng năm, từ 7-9/9 người dân xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh lại tưng bừng tổ chức Lễ hội truyền thống chùa Dạm.
Chùa Dạm có tên chữ là “Đại Lãm Tự” hay chùa Cao, chùa Bà Tấm là đại danh lam thắng cảnh trên núi Dạm được Hoàng Thái hậu Ỷ Lan và vua Lý Nhân Tông xây dựng vào năm Quảng Hựu 2 (1086) và đến năm Hội Phong 3 (1094) thì khánh thành. Đến năm Long Phù thứ 5 (1105), vua còn cho dựng ba cây tháp đá lớn ở chùa. Phong cảnh chùa thâm u, cổ kính với 100 gian nhà được ghép bằng đá, chiều dài 120 mét, chiều rộng 70 mét, với khoảng 12 toà sen tráng lệ. Chùa được coi là trung tâm Phật giáo nổi tiếng thời Lý. Thời Lê Trung Hưng, chùa Dạm được trùng tu tôn tạo. Việc trùng tu, tôn tạo chùa còn được lưu lại trên tấm bia đá có tên: “Đại Lãm Thần Quang tự trùng tu bi ký” được dựng năm Chính Hoà 15 (1694).
Những năm kháng chiến chống Pháp, giặc Pháp đã phá huỷ hoàn toàn chùa Dạm. Chỉ còn lại dấu tích 4 lớp nền móng kè đá còn nguyên gốc (cao chừng 5 – 6 m), những tảng đá chân cột (0,7 x 0,7 m) được chạm khắc cánh hoa sen cầu kỳ, viên gạch ngói đất nung có chạm khắc tinh xảo của thời Lý với nhiều hoa văn nghệ thuật, giếng Bống và 2 pho tượng Hoàng thái hậu Nguyên Phi Ỷ Lan và vua Lý Nhân Tông. Đặc biệt, nơi đây còn bảo lưu được một cột đá nguyên khối cao hơn 5 m, gồm 2 phần: phần dưới là khối hình hộp, (cạnh 1,4m x 1,6m), phần trên là khối hình trụ có tiết diện tròn (đường kính 1,3m) được chạm nổi đôi rồng lớn quấn quanh cột, đầu rồng ngẩng cao, miệng ngậm ngọc, chầu vào hình mặt trời tỏa sáng, mào và bờm bốc lên như ngọn lửa. Đến năm 1986, để bảo tồn khu di tích vô cùng quý giá này, nhân dân địa phương đã xây dựng tạm một ngôi chùa nhỏ thờ Phật, phía sau là ngôi đền nhỏ thờ Hoàng Thái hậu Ỷ Lan và vua Lý Nhân Tông là người có công xây dựng chùa.
Các thôn nằm quanh chân núi Dạm được ăn lộc điền của chùa như: Môn Tự, Tự Thôn, Sơn Nam đều thờ Hoàng Thái hậu Ỷ Lan làm Thành Hoàng làng. Hàng năm cứ đến ngày 7 tháng 9 (âm lịch) chùa Dạm lại tưng bừng mở hội. Lễ hội đã trở thành hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh ăn sâu trong tiềm thức của người dân địa phương. Trong 3 ngày, đông đảo người dân và du khách thập hương nô nức về trảy hội chùa Dạm thành tâm lễ Phật và thưởng ngoạn cảnh đẹp của ngôi chùa cổ. Đặc biệt vào ngày chính hội mùng 8 tháng 9, các thôn quanh núi Dạm như: Sơn Nam, Môn Tự, Sơn Trung, Triều Thôn và Tự Thôn đều có tục rước kiệu Thành Hoàng làng lên đền “Bà Tấm” (tức đền Vua Bà thờ Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan) để yết kiến “Vua Bà”. Kiệu Thần của các thôn được rước lên chùa tập trung tế lễ theo nghi lễ truyền thống. Lễ vật dâng lên “Vua Bà” bao giờ cũng phải có bánh trưng, bánh dày. Sau khi tế lễ ở chùa một ngày xong, kiệu của làng nào được rước về đình của làng đấy, tiếp tục tế lễ và mở hội. Sau phần lễ trang nghiêm, phần hội diễn ra sôi nổi với nhiều trò chơi dân gian như Vật, đu, cà kheo, thi dệt vải, thi cỗ, đập niêu, chọi gà... và thưởng thức những làn điệu quan họ đối đáp ngọt ngào, mượt mà của các liền anh, liền chị.
Chia tay lễ hội, hẹn năm sau gặp lại, âm vang của làn điệu quan họ của vùng Kinh Bắc còn vấn vương níu chân du khách.
Hàng năm, cứ đến ngày 10 tháng 2 (Âm lịch), người dân làng Đông Sơn lại tưng bừng mở hội chùa Đông Sơn.
Chùa Đông Sơn có tên chữ là “Chân Khai Tự” thuộc thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, Bắc Ninh thờ Phật, Lê Văn Giác đại vương (Thành Hoàng làng) và tiến sĩ Vũ Mộng Nguyên, nhà khoa bảng, nhà giáo, nhà thơ nổi tiếng xứ Kinh Bắc. Chùa được dựng năm “Dương Đức nhị niên” 1673 và đã qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Trải qua hàng trăm năm, ngày nay, chùa Đông Sơn có kiến trúc kiểu chữ “Đinh” gồm 5 gian tiền đường, 3 gian thượng điện, bộ khung gỗ và mái ngói cổ kính, là nơi sinh hoạt tâm linh của người dân Bắc Ninh.
Tục xưa còn lưu truyền lại, cứ vào ngày 10 tháng 2 Âm lịch, dân làng Đông Sơn lại tưng bừng mở hội làng (còn gọi là vào Đám). Từ việc giao cho các Giáp cấy lúa, nuôi lợn làm vật tế lễ lên thần linh đến việc bầu một ông Quan đám để tổ chức công việc cỗ bàn, lựa chọn Quan viên tế cùng với ông trưởng thôn đều được dân làng chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước đó hàng tháng trời. Theo đó, những người được chọn để làm Quan đám phải là người có gia đình yên ấm, cháu con hiếu thảo, nhà không có tang và trước ngày diễn ra lễ hội phải ăn chay nằm mộng. Lễ vật tế thần gồm có: mâm xôi, lợn cả con, rượu, và lễ xôi gà của các hàng Giáp.
Đặc sắc nhất trong lễ hội là tục rước bình hương Thành Hoàng làng từ chùa ra đỉnh để tế lễ, khi hết hội lại rước về chùa để an vị. Chính hội là ngày mùng 10 tháng 2 Âm lịch nhưng ngay từ ngày mùng 9 đình và chùa làng đã được mở cửa để làm bao sái đồ thờ tự, phong cờ quạt và rước bình hương của Thành Hoàng làng từ chùa ra “đình xã” (vốn là ngôi đình chung của ba xóm cổ: Đoài, Giữa, Đồng Lĩnh) để tế lễ mở hội. Tục lệ này xuất phát từ truyền thuyết về Thành Hoàng làng-Lê Văn Giác đại vương, xưa kia vốn là một vị quan chức nhưng vì gặp nạn mà ở ẩn tại chùa rồi trở thành sư và hóa tại chùa. Cùng với tục rước bình hương, dân làng còn tổ chức “rước nước” từ giếng cổ cạnh nghẹ chợ Sơn về đình để tế lễ. Ngày mùng 10 chính hội, phần lễ trang nghiêm với các nghi thức tế lễ, dâng lễ vật lên Thành Hoàng theo nghi thức truyền thống. Sau phần lễ, phần hội diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động biểu diễn văn nghệ truyền thống và các trò chơi dân gian như: tuồng, chèo, hát ả đảo, đấu vật, chọi gà …
Qua thời gian, đình Đông Sơn đã bị phá hủy trong kháng chiến chống Pháp, hội chỉ còn được mở tập trung tại chùa Đông Sơn. Dù trải qua nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử nhưng dân làng vẫn gìn giữ những nét đẹp văn hóa của lễ hội chùa Đông Sơn. Bởi, không chỉ dừng lại ở một lễ hội đơn thuần mà lễ hội chùa Đông Sơn còn là dịp gắn kết cộng đồng làng xã vào hoạt động tín ngưỡng tâm linh, văn hóa, văn nghệ nhằm gìn giữ và phát huy những vốn quý của dân tộc từ thủa cha ông dựng nước.
Hội Làng Trịnh Nguyễn được tổ chức vào ngày 10/3 Âm lịch hàng năm, tại phường Châu Khê, thị xã Từ Sơn. Lễ hội kéo dài trong 3 ngày.
Người dân nơi đây, kể cả những người đã từng sinh ra và lớn lên ở làng Trịnh Nguyễn, phường Châu Khê, thị xã Từ Sơn (tỉnh Bắc Ninh) dù đã đi làm phương xa, ai ai cũng thuộc lòng câu răn dạy: “Dù ai đi khắp bốn phương/ Nhớ ngày giỗ tổ Hùng Vương lại về”. Ngày 10-3 âm lịch là ngày Quốc lễ và cũng là ngày Hội của làng Trịnh Nguyễn. Vì thế cứ vào dịp này hàng năm, người dân làng Trịnh Nguyễn lại nô nức chuẩn bị cho lễ hội kéo dài trong 3 ngày.
Trước đây, làng Trịnh Nguyễn có tên gọi là làng Nguyễn Xá. Sau bao biến thiên của trời đất, tên làng đã thay đổi và nay có tên là khu phố Trịnh Nguyễn. Nhưng người dân ở Trịnh Nguyễn và các vùng lân cận vẫn quen gọi làng Trịnh Nguyễn. Tại khu phố Trịnh Nguyễn ngày nay, một cụm di tích lịch sử văn hoá hoàn chỉnh là Đền-Đình-Chùa, vẫn được bảo toàn. 20 năm qua, dân làng Trịnh Nguyễn đã bỏ ra hàng chục tỷ đồng để đại trùng tu kiến tạo lại khu di tích này ngày một hoàn chỉnh, khang trang.
Làng Trịnh Nguyễn thờ đức vua Hùng-đó cũng là lý do tại sao ngày hội của làng được tổ chức đúng ngày 10-3 âm lịch. Trịnh Nguyễn là một làng còn giữ được nhiều phong tục và cổ vật quý như các đạo sắc phong, ngọc Phả…
Cứ vào năm chẵn, lễ hội làng Trịnh Nguyễn tổ chức to; những năm lẻ tổ chức nhỏ với các hoạt động như rước lễ, tế hội đồng, hát quan họ, ca trù, thi đấu vật, chọi gà, bắt vịt…
Sáng 10/3 Âm lịch, tại ao làng trước sân đền, các liền anh, liền chị trong câu lạc bộ quan họ của làng Trịnh Nguyễn, tổ chức hát quan họ. Ngồi trên thuyền rồng, các liền anh liền chị hát điệu Mời trầu, Ngồi tựa mạn thuyền… làm say đắm lòng khách thập phương về dự hội.
Trong ngày đầu tiên của lễ hội, các trò chơi bịt mắt bắt gà, bắt vịt dưới ao, đấu vật, chọi gà diễn ra trong không khí vui vẻ, sôi nổi. Người bắt được gà, được vịt càng vui, người thua cũng không tỏ ra chán nản.
Một trong những nét văn hóa tiêu biểu của người dân Trịnh Nguyễn vẫn được giữ gìn từ xa xưa đến nay là tục mời khách. Không phải mời người trong làng, trong họ đến dùng cơm mà mời khách từ thập phương về dự hội. Gia chủ nào mời được càng nhiều khách từ nơi khác đến dự hội và dùng cơm với gia đình thì càng tự hào, vinh dự. Điều đó thể hiện sự giao thiệp rộng rãi của gia chủ và cũng là cách để người dân Trịnh Nguyễn thể hiện sự trọng thị với những người yêu mến nét văn hóa của làng Trịnh Nguyễn.
Mâm cơm mời khách bao giờ cũng tươm tất, dù nhà giàu có hay nhà kém điều kiện, trước là để dâng lên tiên tổ, sau là để đãi khách. Đa số, gia đình nào cũng thịt hai con chó, vài con gà, gói mấy trăm chiếc bánh tẻ và chuẩn bị trái cây các loại.
Trong 3 ngày hội, người đảm nhiệm việc nội trợ trong gia đình luôn vất vả, bận rộn nhất, nhưng đó cũng là niềm vui lớn nhất của người đã góp phần gìn giữ nét văn hóa ẩm thực của làng Trịnh Nguyễn.